Bạn đang xem bài viết Thuyết Minh Về Văn Miếu Trấn Biên ❤️️15 Bài Văn Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Rqif.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thuyết Minh Về Văn Miếu Trấn Biên ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất ✅ Tìm Hiểu Về Di Tích Lịch Sử Nổi Tiếng Của Đất Nước Với Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc.
Lập dàn ý thuyết minh về văn miếu Trấn Biên sẽ giúp các em học sinh phân tích những ý chính cơ bản để đàng triển khai bài văn của của mình. Tham khảo mẫu dàn bài thuyết minh về văn miếu Trấn Biên chi tiết như sau:
I. Mở bài:
Giới thiệu đối tượng thuyết minh – di tích văn miếu Trấn Biên.
Cảm nghĩ khái quát của em về di tích văn miếu Trấn Biên.
II. Thân bài:
a) Giới thiệu khái quát:
Vị trí địa lí, địa chỉ
Diện tích
Khung cảnh xung quanh
b) Giới thiệu về lịch sử hình thành văn miếu Trấn Biên:
Đất nước trong giai đoạn “Trịnh Nguyễn phân tranh”, đây chính là văn miếu đầu tiên được xây dựng vào năm 1715 ngay tại xứ Đàng Trong nơi cai quản của chúa Nguyễn.
Văn miếu được coi như là một nơi rèn luyện những nhân tài cho đất nước, là nơi tôn vinh Khổng Tử và các bậc danh nhân văn hóa của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.
c) Giới thiệu về kiến trúc, cảnh vật ở văn miếu Trấn Biên
Đặc điểm kiến trúc của văn miếu Trấn Biên
Chi tiết cảnh quan của văn miếu Trấn Biên
d) Ý nghĩa về lịch sử, văn hóa của văn miếu Trấn Biên:
Được xem như là “Quốc Tử Giám” của Nam Bộ.
Là nơi diễn ra các buổi họp mặt quay quần, tọa đàm trình bày về chiều dài lịch sử cũng như nền văn hóa đã có từ ngàn đời nay của dân tộc tỉnh Đồng nai qua các buổi triển lãm tranh ảnh, tư liệu, hiện vật.
Thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước
III. Kết bài:
Khẳng định lại một lần nữa giá trị, ý nghĩa của văn miếu Trấn Biên.
Nêu cảm nghĩ của bản thân về văn miếu Trấn Biên.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Ai đã từng nghe những câu thơ này đều mong muốn một lần đến Đồng Nai để ngắm nhìn cảnh sắc hùng vĩ, tươi đẹp này. Đồng Nai được biết đến không chỉ là một nơi với nhiều địa điểm du lịch hấp dẫn, các trò chơi dành cho nhiều bạn trẻ mà còn gắn với nhiều di tích lịch sử nổi tiếng đã có từ ngàn đời xưa. Một trong số đó phải kể đến Văn Miếu Trấn Biên là nơi đúc kết tinh hoa, mang đậm giá trị giáo dục văn hóa thiêng liêng, nơi nhân chứng cho chiến công, tài giỏi từ bao đời nay.
Nói đến Văn Miếu Trấn Biên là nhớ đến đất nước trong giai đoạn “Trịnh Nguyễn phân tranh”, đây chính là văn miếu đầu tiên được xây dựng vào năm 1715 ngay tại xứ Đàng Trong nơi cai quản của chúa Nguyễn. Văn miếu được coi như là một nơi rèn luyện những nhân tài cho đất nước, là nơi tôn vinh Khổng Tử và các bậc danh nhân văn hóa của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.
Trong giai đoạn 1861, nơi đây từng bị thực dân Pháp phá hủy, sau đó văn miếu được khởi công trùng tu xây dựng lại vào năm 1998 và chính thức hoàn thành khang trang lộng lẫy vào năm 2002. Khu vực linh thiêng này tọa lạc tại một khu đất rộng lớn thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, thành phố Biên Hòa. Tổng diện tích của khuôn viên văn miếu lên đến 15 ha, nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 33km.
Văn Miếu Trấn Biên còn đươc xem như là “Quốc Tử Giám” của Nam Bộ, bởi nằm bên cạnh văn miếu là một ngơi trường học của tỉnh Biên Hòa. Do đó, nơi đây không những là nơi linh thiêng thờ phụng thường được các chúa Nguyễn đến hành lễ, mà còn là biểu trưng cho truyền thống hiếu học, hào khí dân tộc to lớn của người dân Việt Nam ở bờ cõi phương nam. Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng từ rất sớm ở miền Nam và chỉ ra đời sau văn miếu Quốc Tử Giám khoảng 700 năm, đây là biểu tưởng cho truyền thống tôn sư trọng đạo, trọng người tài từ ngàn đời xưa.
Được xây dựng theo phong cách kiến trúc tương đối giống với miếu Quốc Tử Giám ở miền bắc, với sự kết hợp nhiều khu như nhà thờ chính, sân hành lễ, tả vu hữu vu,… Với không gian thoáng đãng, cây xanh che phủ xung quanh nổi bật giữa nó là chiếc mái vòm cong với gam màu xanh lưu ly trong đầy uy nghi, hùng vĩ giữa núi rừng trập trùng. Từ cửa chính bước vào là những khung cảnh vô cùng tráng lệ lần lược là nhà bia, khuê Văn Các, hồ Thiên Quang Tỉnh, cổng Đại Thành, nhà thờ Đức Khổng Tử và cuối cùng của văn Miếu Trấn Biên sẽ là nhà thờ chính rộng lớn.
Nhà bia là khu vực có mái che, nằm ngay chính giữa bia đá làm bằng chất liệu đá Granit Bửu Long. Trên bia được khắc bài văn do giáo sư anh hùng lao động Vũ Khiêu biên soạn, khái quát về truyền thống văn hóa, giáo dục của vùng đất Biên Hòa, nêu bật khát vọng của toàn thể nhân dân Đồng Nai.
Đi lên lầu Khuê Văn Các du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh của văn miếu trùng trùng điệp điệp đầy uy nghi tráng lệ giữa cảnh rừng xanh tươi. Đây được biết đến là một công trình nổi tiếng thể hiện sự trân trọng, đề cao học vấn văn chương thơ phú, đặc biệt lại được chính tay của một vị quan văn Võ xây dựng vào năm 1805 dưới triều đại nhà Nguyễn. Khuê Văn Cát được xây dựng theo lối kiến trúc cổ, kết cấu dạng tầng gác, cổ lầu, bên trên được thiết kế với bốn góc có các hàng lan can được sơn màu nâu đỏ gợi lên sự thanh thoát, đơn giản mà lại vô cùng vững chắc.
Khuê Văn Các trước đây được biết đến là nơi dành cho các bậc hiền tài, những tao nhân dùng để ngâm thơ, gảy đàn, ngắm trăng, thâm chí là bàn luận văn chương, một nơi vô cùng yên tĩnh nên thơ. Đứng trên cao nhìn ra trước cổng tam quan sẽ thấy được hồ Tịnh Quang với làn nước xanh trong ngắt, có thể nhìn rõ cả những đàn cá đang tung tăng bơi lội đủ màu sắc dưới hồ tạo nên bức tranh vô cùng đặc sắc. Tiếp đến là Đại Thành Môn là nơi có vị trí nằm ngay trên trục thần đạo tại cửa chính trước khi bước vào khu vực thờ phụng tế lễ.
Nói đến Khổng Tử ai cũng biết đó là một bậc hiền tài, một người đã khai sáng nho giáo và nho học của cả một thế hệ phương Đông. Bia của bậc thánh nhân này được xây đắp đặt trên một bệ đá chạm khắc hoa văn cao 80cm, đươc đặt ở một vị trí quan trọng ngay trước sân Đại Bái trên trục thần đạo.
Tiếp đến là khu vực nhà thờ chính của Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng theo kiểu nhà ba gian hai chái, nền thì lót gạch tàu, sn6 son thếp vàng. Nhà có ba gian, ở giữa là nơi thờ vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi được trang trọng thờ ngài ở trên một bệ ghép bằng các đá thảng cốt cao hơn so với nền cốt nhà.
Từ ngoài vào của nhà thờ chính là nơi thờ những vị danh nhân văn hóa cả nước như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du. Đây là một nơi vô cùng linh thiên các bậc hiền tài đều được thờ trên bài vị phía trước có hương án sơ son thiếp vàng, ở phía hai bên là bát bửu bằng gỗ cũng được sơn son thiếp vàng đầy trang trọng và uy nghi.
Hằng năm nơi đây thường tổ chức nhiều hoạt động, sự kiện nhằm khẳng định vai trò là trung tâm văn hóa, giáo dục, tín ngưỡng quan trọng của tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả một vùng đất phía Nam nói chung. Văn Miếu Trấn Biên còn là nơi diễn ra các buổi họp mặt quay quần, tọa đàm trình bày về chiều dài lịch sử cũng như nền văn hóa đã có từ ngàn đời nay của dân tộc tỉnh Đồng Nai qua các buổi triển lãm tranh ảnh, tư liệu, hiện vật.
Giờ đây dù đã trải qua bao thăng trầm đã từng bị phá bỏ, nhưng Văn Miếu Trấn Biên vẫn tồn tại và sừng sững vị thế giữa một vùng trời rộng lớn, trở thành một danh lam thắng cảnh đặc sắc nổi tiêng của dãy đất miền Nam. Cùng với vị thế quan trọng càng được khẳng định, Văn Miếu Trấn Biên luôn không ngừng phát triển, bảo tồn, giữ gìn những di sản văn hóa lâu đời và phát huy tiềm lực du lịch bền vững hơn trong tương lai.
Mời bạn tham khảo 🌠 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em 🌠 22 Bài Mẫu Hay
Tham khảo bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên ở Đồng Nai sẽ mang đến cho bạn đọc nhiều thông tin thú vị về địa danh này.
Đất nước ta có vô vàn danh lam thắng cảnh, địa điểm nổi tiếng. Có thể kể đến như Vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh, Côn Sơn Kiếp Bạc ở Hải Dương. Nhưng có lẽ, danh lam tiêu biểu, để lại ấn tượng trong em nhiều nhất có lẽ là “Văn miếu Trần Biên” ở Đồng Nai.
Theo mô tả của Đại Nam nhất thống chí thì Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng trên thế đất đẹp: phía nam trông ra sông Phước Giang, phía bắc dựa vào núi Long Sơn, là một nơi cảnh đẹp thanh tú, cỏ cây tốt tươi… Nhà thờ chính xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ, nền lát gạch tàu, trên các cột nhà treo đôi liễn đối, như:
Ở gian giữa có bàn thờ Bác Hồ ở gian giữa, trên tường có biểu tượng trống đồng tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương. Bên trái nhà là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi,Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn,… bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông… Trong gian thờ này đặc biệt có trưng bày 18 kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng, biểu trưng cho 18 đời Vua Hùng, cội nguồn của dân tộc.
Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dày đều 14 gian. Phía trước hai bên nhà thờ chính còn có hai ngôi miếu, miếu bên trái thờ Tiên sư, miếu bên phải thờ Tiền hiền – Hậu hiền. Ngoài ra, nơi Văn miếu Trấn Biên còn có khu sinh hoạt truyền thống gồm có nhà truyền thống, bia truyền thống, và các công trình phụ cận. Bia truyền thống Trấn Biên–Đồng Nai khắc bài văn khái quát về truyền thống văn hóa, giáo dục của Biên Hòa xưa và nay. Nhà truyền thống chủ yếu dùng để trưng bày và ghi danh những đơn vị, cá nhân đạt được các danh hiệu cấp nhà nước.
Còn phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bàng gạch Bát Tràng. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bổ cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mà”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh, cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chư Hán cổ xưa.
Và nhìn từ xa, Văn miếu Trấn Biên có cảnh quan đẹp, hội tụ phong thủy và tiện ích, có hình chữ nhật, trải dài theo hướng bắc – nam. Phía trước có hồ nước lớn làm Minh Đường; phía sau có núi Bửu Long và núi Long Ẩn làm Tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ; bên trái có ồ nước trong xanh; bên phải có đường giao thông chính. Không gian nơi Văn miếu tọa lạc khoáng đãng, phong cảnh hữu tình với cây co xanh tươi, nước hồ trong xanh, núi đồi nhấp nhô… Cảnh quang này, theo thuật phong thủy được xem là quý địa, rất phù hợp với một công trình văn hóa, giáo dục như Văn miếu Trấn Biên.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu – Ọuốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đến ngày 27/7/2011. 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu. Di tích làm rạng rỡ văn hóa, lịch sử sâu rộng của dân tộc Việt Nam ta.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên hay nhất sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn đọc và các em học sinh.
Văn Miếu Trấn Biên ở Ðồng Nai là sự tiếp nối truyền thống của Văn Miếu Quốc Tử Giám ở Thăng Long (Văn Miếu đầu tiên của nước ta, được xây dựng năm 1070) và là biểu tượng cho tinh thần hiếu học – trọng người tài. Văn Miếu Trấn Biên sừng sững uy nghi tọa lạc trên diện tích rộng 20 nghìn m2 tại phường Bửu Long, TP Biên Hòa, tỉnh Ðồng Nai.
Theo sách “Ðại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, tuy ra đời sau Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Thăng Long – Hà Nội hơn 700 năm, nhưng Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng sớm nhất ở miền nam, trước các Văn Miếu ở Vĩnh Long, Gia Ðịnh và ở kinh đô Huế. Văn Miếu Trấn Biên là nơi không chỉ thờ Khổng Tử mà còn thờ phụng các bậc vĩ nhân, danh nhân văn hóa, giáo dục của đất nước.
Văn Miếu Trấn Biên được trùng tu năm 1794. Ðích thân chúa Nguyễn đến đây dâng lễ vào mùa xuân và mùa thu hằng năm. Từ năm 1802, vua nhà Nguyễn ủy nhiệm quan Tổng trấn thành Gia Ðịnh, quan tổng trấn Biên Hòa và quan đốc học đến hành lễ hằng năm thay nhà Vua. Thời đó, bên cạnh Văn Miếu Trấn Biên là trường học của tỉnh Biên Hòa. Gắn liền với Văn Miếu Trấn Biên là một nền giáo dục phát triển, đã sinh ra những danh nhân làm rạng rỡ miền đất phương nam như Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Ðức, Nguyễn Ðình Chiểu, Ngô Nhân Tịnh và Lê Quang Ðịnh.
Khi quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa vào năm 1861, chúng đã tàn phá hoàn toàn Văn Miếu Trấn Biên nhằm dập tắt tinh thần yêu nước của người dân Nam Bộ. Văn Miếu Trấn Biên đã bị hủy hoại sau 146 năm tồn tại. Gần đây, Văn Miếu Trấn Biên đã được xây dựng lại trên nền đất cũ. Nổi bật giữa vùng không gian thoáng đãng là những vòm mái cong, lợp ngói lưu ly mầu xanh ngọc bằng gốm tráng men, những lầu bia uy nghi tráng lệ. Từ cổng vào lần lượt là nhà bia, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, cổng tam quan, nhà bia thứ hai và nhà thờ chính. Bia Tiến sĩ được khắc bằng đá xanh với dòng chữ lớn đầu tiên “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Nhà thờ chính xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ, nền lát gạch tàu, có bàn thờ Bác Hồ ở gian giữa, trên tường có biểu tượng trống đồng tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương. Trong gian thờ này đặc biệt có trưng bày 18 kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng, biểu trưng cho 18 đời Vua Hùng, cội nguồn của dân tộc.
Trong Văn Miếu Trấn Biên còn có các bàn thờ đức Khổng Tử, bàn thờ Quốc tổ và Lịch đại đế vương. Gian bên trái thờ các danh nhân Chu Văn An, Nguyễn Trãi và Lê Quý Ðôn. Gian bên phải thờ Võ Trường Toản, Ðặng Ðức Thuật và ba vị được tôn xưng là “Gia Ðịnh tam kiệt”: Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Ðịnh. Phía trước hai bên nhà thờ chính còn có hai ngôi miếu, miếu bên trái thờ Tiên sư, miếu bên phải thờ Tiền hiền – Hậu hiền.
Tại Văn Miếu Trấn Biên thường tổ chức các lễ viếng các bậc tiền nhân, các lễ báo công, tuyên dương tài năng trên các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực văn hóa-giáo dục, các hoạt động mang tính văn hóa dân gian như lễ hội, biểu diễn nghệ thuật, thả thuyền trên hồ… Văn Miếu Trấn Biên là nơi đón nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế khi đến thăm Ðồng Nai.
Đừng bỏ qua 🔥 Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám 🔥 15 Bài Hay Nhất
Bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên ngắn gọn sẽ giúp bạn đọc luyện tập cách hành văn súc tích, giàu ý nghĩa biểu đạt.
Văn Miếu Trấn Biên là công trình được xây dựng theo kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội, gồm các hạng mục: nhà thờ chính, tả vu hữu vu, sân hành lễ… thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo, kính trọng hiền tài.
Nổi bật giữa vùng không gian thoáng đãng, nhiều cây xanh, là những vòm mái cong, lợp ngói lưu ly màu xanh ngọc (gốm tráng men). Từ Văn miếu môn lần lượt là nhà bia truyền thống Trấn Biên – Đồng Nai, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, cổng tam quan, nhà bia thứ hai thờ Khổng Tử và sau cùng là nhà thờ chính rộng lớn. Ở đây có tấm bia lớn có khắc dòng chữ to: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nhà thờ chính xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ, sơn son thếp vàng, nền lát gạch tàu, trên các cột nhà treo đôi liễn đối, như:
Ở gian giữa có bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên tường có biểu tượng trống đồng tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương. Bên trái nhà là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn,… bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông…
Trong gian thờ này, đặc biệt có trưng bày 18 kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng, biểu trưng cho 18 đời vua Hùng, cội nguồn của dân tộc Việt. Phía trước hai bên nhà thờ chính còn có hai ngôi miếu, miếu bên trái thờ Tiên sư, miếu bên phải thờ Tiền hiền-Hậu hiền.
Văn Miếu Trấn Biên mang nhiều giá trị, ý nghĩa về văn hóa, giáo dục, lịch sử.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 🍀 15 Bài Hay Nhất
Để viết bài văn thuyết minh văn miếu Trấn Biên đạt điểm cao, các em học sinh cần nắm vững phương pháp làm bài và trau dồi cho mình một văn phong hay.
Tọa lạc trong khuôn viên có tổng diện tích lên tới 15 ha, thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 33km, du khách có thể tới đây một cách dễ dàng bằng nhiều phương tiện khác nhau như xe máy, ôtô cho đến xe buýt.
Nếu đi bằng xe máy xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, các bạn đi dọc theo đường Trường Chinh đến Xa lộ Hà Nội tại Tân Hưng Thuận. Sau đó tiếp tục đến Thạnh Xuân – Hiệp Bình Phước. Đi dọc theo Xa lộ Đại Hàn/Xa lộ Hà Nội/QL1A và Quốc lộ 1K đến Nguyễn Du tại Quang Vinh, thành phố Biên Hòa. Cuối cùng các bạn đi dọc theo Nguyễn Du đến điểm đến văn miếu Trấn Biên. Nếu đi bằng xe buýt, từ Đinh Tiên Hoàng, các bạn hãy lên tuyến xe buýt số 05 đi từ Bến xe Chợ Lớn – Biên Hòa. Khi đến bến xe Biên Hòa đi bộ khoảng 30 phút là sẽ tới Văn Miếu Trấn Biên.
Đây là văn miếu được xây dựng đầu tiên ở xứ Đàng Trong (năm 1715), ngôi miếu này được lập lên để tôn vinh Khổng Tử và các danh nhân văn hóa nước Việt. Văn Miếu Trấn Biên ra đời được xem như là một “Văn Miếu Quốc Tử Giám” của vùng Nam Bộ. Một trong những biểu trưng cho truyền thống học tập, hào khí và văn hóa của người Việt phương Nam.
Năm 1715 (năm Ất Mùi), chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Ký lục Phạm Khánh Đức và Trấn thủ Nguyễn Phan Long tiến hành xây dựng Văn miếu Trấn Biên tại thôn Tân Lại, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chánh. Nơi đây được xây dựng để chúa Nguyễn Phúc Ánh tới hành lễ hai lần mỗi năm vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng sau năm 1802, khi chúa Nguyễn lên ngôi ở Huế thì việc hành lễ tại văn miếu giao lại cho quan tổng trấn thành Gia Định cùng với trấn quan Biên Hòa và quan đốc học.
Văn miếu Trấn Biên đã có hai lần đại trùng tu và được danh nhân Trịnh Hoài Đức ghi chép vào trong sử sách Gia Định Thành Thông Chí với một thế đất đẹp. Lần trùng tu thứ nhất vào năm Giáp Dần (1794). Vào thời điểm đó, chúa Nguyễn Phúc Ánh đã sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô lo việc trùng tu. Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý, 1852) được sửa chữa với quy mô lớn hơn trước rất nhiều.
Những đến năm 1861, Văn miếu Trấn Biên bị thực dân Pháp tới đốt phá khi chiếm đánh vùng Biên Hòa. Sau hơn 137 năm từ lúc thực dân Pháp tàn phá thì công trình này mới được khôi phục trên nền văn miếu cũ. Nằm cách trung tâm thành phố Biên Hòa khoảng 3 km và gần Trung tâm Văn hóa Du lịch Bửu Long. Cho đến nay, văn miếu Trấn Biên ngày càng mở rộng và trở thành điểm đến quen thuộc của người dân trong và ngoài tỉnh tới tham quan.
Điểm nổi bật nhất trong lối kiến trúc của văn miếu Trấn Biên đó chính là những vòm mái cong, lợp ngói lưu ly màu xanh ngọc (gốm tráng men) vô cùng bắt mắt và thu hút. Sau khi tham quan Văn miếu môn, du khách sẽ được lần lượt chiêm ngưỡng những công trình khác như nhà bia truyền thống Trấn Biên – Đồng Nai, hồ Tịnh Quang, cổng tam quan, Khuê Văn Các, nhà bia thứ hai thờ Khổng Tử và cuối cùng là nhà thờ chính rộng lớn.
Khu nhà thờ chính được xây dựng theo lối kiến trúc cổ kiểu nhà ba gian hai chái, nền lát gạch tàu, sơn son thếp vàng, trên các cột nhà treo đôi liễn đối. Trước nhà thờ chính các bạn sẽ tận mắt thấy một tấm bia lớn có khắc dòng chữ to: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Ở gian giữa của văn miếu có bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở trên tường thì có biểu tượng trống đồng – biểu tượng đặc trưng cho nền văn hóa Quốc Tổ Hùng Vương. Ở bên trái nhà là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam, còn bên phải thì thờ các danh nhân đất Nam Bộ.
Bên cạnh những giá trị về văn hóa, lịch sử thì văn miếu còn là một công trình có lối kiến trúc đặc sắc về nghệ thuật, vừa cổ kính vừa trang nhã. Chính vì điều này mà đã thu hút hàng trăm ngàn lượt khách du lịch trong và ngoài tỉnh tới thăm.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Bài thuyết minh về văn miếu Trấn Biên chọn lọc sẽ là một trong những tư liệu văn mẫu không thể bỏ qua khi viết bài văn giới thiệu về địa danh này.
Lịch sử vùng đất Đồng Nai từ thế kỷ XVI là vùng đất hoang sơ. Đến năm 1698, chưởng cơ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược xứ Nam bộ lúc này kinh tế Đồng Nai phát triển khá trù phú, nên văn hóa học hiệu càng được chú trọng hơn. Vì thế 17 năm sau, tức năm Ất Mùi (1715), chúa Nguyễn Phúc Chu sai Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn miếu Trấn Biên tại thôn Tân Lại, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chánh (nay thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa).
Văn miếu Trấn Biên có hai lần được trùng tu lớn: Lần trùng tu thứ nhất vào năm Giáp Dần (1794). Khi ấy, chúa Nguyễn Phúc Ánh sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô lo việc trùng tu. Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý, 1852). Sau khi hoàn thành văn miếu có qui mô lớn hơn trước. Với hai lần trùng tu ấy Văn Miếu Trấn Biên đã được danh nhân Trịnh Hoài Đức ghi chép trong sử sách Gia Định Thành Thông Chí với một thế đất đẹp: “Phía Nam hướng đến sông Phước, Phía Bắc dựa vào núi rừng núi sông thanh tú là một cảnh tuyệt đẹp nhất ở Văn Miếu Trấn Biên..”
Vào năm 1861, khi thực dân Pháp xâm lược miền Đông Nam kì đánh chiếm Biên Hòa cho tàn phá văn miếu Trấn Biên nhằm thực hiện chính sách ngu dân và thống trị lâu dài. Với ý chí kiên cường bất khuất nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền. Vào ngày 9/12/1998 , Đảng Ủy và nhân dân tỉnh Đồng Nai đã khởi công xây dựng lại Văn miếu Trấn Biên tại phường Bửu Long, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; cách trung tâm thành phố khoảng 3 km, và gần Trung tâm Văn hóa Du lịch Bửu Long. Công trình được khánh thành vào ngày mùng 3 Tết Nhâm Ngọ (nhằm ngày 14 tháng 2 năm 2002).
Văn Miếu Trấn Biên ra đời được xem như là “Văn Miếu Quốc Tử Giám” của Nam Bộ. Ðây chính là biểu trưng cho truyền thống học tập, hào khí và văn hóa của người Việt phương Nam. Văn Miếu là nơi thờ phụng các danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước và là biểu trưng của nền văn hóa dân tộc.
Văn Miếu Môn (Cổng Văn miếu) Với kết cấu lầu gác, đây là lối đi chính dẫn vào khu thờ tự bên trong. Nhà Bia với bài văn bia do giáo sư – anh hùng lao động Vũ Khiêu biên soạn, gồm 8 phần, mỗi phần gồm 10 câu, được khắc trên hai mặt bia đá. Khái quát truyền thống văn hóa, giáo dục của dân tộc và của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, thể hiện khát vọng của nhân dân Đồng Nai trong kỷ nguyên mới.
Khuê Văn Các – gác vẻ đẹp ngôi sao Khuê ngôi sao chủ đạo trong bầu trời văn học. Thiên Quang Tỉnh (Giếng ánh sáng mặt trời) được xây dựng theo kết cấu hình vuông. Đại Thành Môn – lớp cổng của sự thành đạt lớn lao. Các nho sĩ ngày xưa khi đi thi đạt được trình độ học vấn uyên thâm thì sẽ được bước qua lớp cổng Đại Thành này vào khu thờ tự bên trong.
Đức Khổng Tử là người khai sáng ra Nho giáo và Nho học. Ngày nay, Trung tâm Văn miếu Trấn Biên cũng đưa vào thờ Khổng Tử ở vị trí trang trọng từ ngoài vào nhằm thể hiện hơn nữa tinh thần tôn sư trọng đạo, tôn trọng tri thức. Bái Đường (Nhà thờ chính) được xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ, sơn son thếp vàng, nền lát gạch, trên các cột nhà treo đôi liễn đối. Gian trung tâm thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Sau lưng tượng thờ Chủ tịch là hình ảnh Trống đồng Ngọc Lũ biểu tượng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương.
Gian bên trái nhà là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm,Lê Quí Đôn..Gian bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu. Trong gian thờ này, đặc biệt có trưng bày 18 kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng, biểu trưng cho 18 đời vua Hùng, cội nguồn của dân tộc Việt.
Ngoài ra, nơi Văn miếu Trấn Biên còn có khu sinh hoạt truyền thống gồm có nhà truyền thống không những là nơi tổ chức các buổi họp mặt, tọa đàm giới thiệu và tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, con người vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và các hoạt động sinh hoạt văn hóa khác mà còn là nơi trưng bày triển lãm tranh ảnh, tư liệu về Văn Miếu Trấn Biên.
Ngày 18 tháng 8 năm 2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định về việc xếp hạng cấp Quốc gia di tích lịch sử Văn miếu Trấn Biên (phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm phát huy những giá trị văn hóa, khẳng định vị thế của Văn miếu Trấn Biên trong đời sống tinh thần của người dân Đồng Nai và vùng đất Nam bộ.
Với chức năng là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa – giáo dục cùa vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Trung tâm Văn Miếu Trấn Biên ngày càng thể hiện vai trò là trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Đồng Nai nói riêng và vùng đất phía Nam nói chung thông qua rất nhiều hoạt động, sự kiện được tổ chức hàng năm.
Với vị thế và tầm quan trọng nhất định trong sinh hoạt văn hóa của tỉnh Đồng Nai, Văn Miếu Trấn Biên đang nỗ lực không ngừng để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa ở Đồng Nai. Hoạt động của Văn Miếu Trấn Biên hướng đến việc gắn kết chặt chẽ trong quy hoạch phát triển chung của tỉnh Đồng Nai trong định hướng phát triển văn hóa – du lịch trong tương lai.
Còn thêm gợi ý ☘ Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 10 ☘ 15 Mẫu Hay
Tham khảo bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên đặc sắc sẽ mang đến cho bạn đọc những trải nghiệm thú vị khi tìm hiểu về di tích lịch sử này.
Văn miếu Trấn Biên là “Văn miếu” đầu tiên được xây dựng (xây năm 1715) tại xứ Đàng Trong, để tôn vinh Khổng Tử, các danh nhân văn hóa nước Việt và là nơi đào tạo nhân tài phục vụ cho chế độ. Năm 1861, nơi thờ phụng trên đã bị thực dân Pháp phá bỏ. Mãi đến năm 1998, Văn miếu Trấn Biên mới được khởi công khôi phục lại nơi vị trí cũ, và hoàn thành vào năm 2002. Hiện nay toàn thể khu vực uy nghi đẹp đẽ này tọa lạc tại khu đất rộng thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam.
Năm 1698, khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào đến xứ Đồng Nai, thì vùng đất ấy đã khá trù phú với một thương cảng sầm uất, đó là Cù lao Phố. Để có nơi bảo tồn, phát huy và tôn vinh các giá trị văn hóa giáo dục xưa và nay của dân tộc Việt ở vùng đất mới, 17 năm sau, tức năm Ất Mùi (1715), chúa Nguyễn Phúc Chu sai trấn thủ Nguyễn Phan Long và ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn miếu Trấn Biên. Đây là “Văn miếu” đầu tiên được xây dựng tại xứ Đàng Trong, có trước cả văn miếu ở Vĩnh Long, Gia Định và Huế.
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ghi: “Văn miếu Trấn Biên được xây dựng tại thôn Tân Lai, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chánh (nay thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa)”.
Và theo mô tả của Đại Nam nhất thống chí, thì Văn miếu Trấn Biên được xây dựng trên thế đất đẹp: Phía nam trông ra sông Phước Giang, phía bắc dựa vào núi Long Sơn, là một nơi cảnh đẹp thanh tú, cỏ cây tươi tốt…Bên trong rường cột chạm trổ, tinh xảo… Trong thành trăm hoa tươi tốt, có những cây tòng, cam quýt, bưởi, hoa sứ, mít, xoài, chuối và quả hồng xiêm đầy rẫy, sum sê, quả sai lại lớn….
Trước năm 1802, hằng năm, đích thân chúa Nguyễn Phúc Ánh đến Văn miếu Trấn Biên để hành lễ hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng từ khi chúa Nguyễn lên ngôi ở Huế, thì quan tổng trấn thành Gia Định, thay mặt vua, cùng với trấn quan Biên Hòa và quan đốc học đến hành lễ… Tương tự Văn miếu Huế, bên cạnh có Quốc tử giám để giảng dạy học trò. ở Biên Hòa, bên cạnh Văn miếu Trấn Biên là Tỉnh học (trường học tỉnh Biên Hòa). Trường học lớn của cả tỉnh này mãi đến đời vua Minh Mạng mới dời về thôn Tân Lại (nay thuộc phường Hòa Bình, Biên Hòa).
Văn miếu Trấn Biên có hai lần được trùng tu lớn: Lần trùng tu thứ nhất vào năm Giáp Dần (1794). Khi ấy, chúa Nguyễn Phúc Ánh sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô lo việc trùng tu, “giữa làm Đại Thành điện và Đại Thành môn, phía Đông làm Thần miếu, phía Tây làm Dục Thánh từ, trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kim Thanh, phía hữu có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng Khuê Văn các treo trống chuông trên đấy, phía tả có Sùng Văn đường, phía hữu có Duy Lễ đường.
Chu vi bốn mặt ngoài xây thành vuông, mặt tiền làm cửa Văn miếu, phía tả phía hữu có cửa Nghi môn, rường cột chạm trổ, quy chế tinh xảo, đồ thờ có những thần bái, khám vàng, ve chén và đồ phủ quỹ biên đậu đều chỉnh nhã tinh khiết” (theo Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí).
Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý, 1852). Sau khi hoàn thành văn miếu có quy mô lớn hơn trước: “Văn miếu chính đường và tiền đường đều 5 gian, lại dựng thêm 2 dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian, đền Khải Thánh, chính đường và tiền đường đều 3 gian, một tòa cửa giữa 3 gian, một tòa cửa trước 1 gian, một tòa kho đồ thờ 3 gian, một tòa Khuê Văn các 2 tầng, ba gian hai chái; phía trước, biển “Đại Thành điện” đổi làm “Văn miếu điện” và “Khải Thánh điện” đổi làm “Khải Thánh từ”
Ngày 9 tháng 12 năm 1998, một công trình mới mang tên Văn miếu Trấn Biên được khởi công khôi phục lại trên nền văn miếu cũ tại phường Bửu Long, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; cách trung tâm thành phố khoảng 3 km, và gần Trung tâm Văn hóa Du lịch Bửu Long. Công trình được khánh thành vào ngày mùng 3 Tết Nhâm Ngọ (nhằm ngày 14 tháng 2 năm 2002) với tổng diện tích gần 5 ha, trong đó khu trung tâm rộng khoảng 2 ha.
Hiện nay, du khách đến thăm Văn Miếu Trấn Biên ngày càng đông do phong cảnh rộng thoáng, với vẻ đẹp vừa cổ kính vừa trang nhã. Văn Miếu là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa-giáo dục xưa và nay của dân tộc và của đất Ðồng Nai.
Gửi tặng bạn 💕 Kể Về Một Cuộc Đi Thăm Di Tích Lịch Sử 💕 15 Bài Văn Hay
Được xây dựng năm 1715, Văn Miếu Trấn Biên gắn liền với công cuộc mở cõi về phương Nam. Đây là Văn Miếu đầu tiên được xây dựng ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn.
Văn Miếu Trấn Biên hiện tọa lại tại phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Lịch sử Văn Miếu Trấn Biên gắn liền với công cuộc mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý xứ Đồng Nai và sáp nhập vùng đất này vào nước Việt. 17 năm sau, tức năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây Văn Miếu Trấn Biên, để thể hiện tư tưởng tôn vinh Nho giáo, phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo, kính trọng hiền tài và tiếp nối truyền thống văn hóa của người Việt ở phương Nam.
Công trình đã có hai lần trùng tu lớn là năm 1794 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh, và năm 1852 thời vua Tự Đức. Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và đã phá bỏ công trình này. Mãi tới năm 1998 – kỷ niệm 300 năm thành lập và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai; Văn Miếu Trấn Biên mới được phục dựng trên nền đất cũ có diện tích khoảng 5 ha, trong đó khu thờ chính rộng 2 ha và hoàn thành xây dựng sau 4 năm.
Văn Miếu Trấn Biên được phục dựng theo các tư liệu cổ như Đại Nam Nhất Thống Chí, Gia Định Thành Thông Chí. Các hạng mục công trình được xây đối xứng theo một trục thần đạo; lần lượt từ ngoài vào là Văn Miếu Môn, nhà bia, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, Đại Thành Môn, tượng Khổng Tử, sân hành lễ, Nhà thờ chính. Hai bên có các nhà tả – hữu là nhà Đề danh – nhà truyền thống, Thư khố – Văn vật khố. Công trình được xây với vật liệu mới nhưng vẫn tuân theo phong cách truyền thống.
Khuê Văn Các là một lầu cao 2 tầng với 3 tầng mái; có cầu thang đi lên. Ở trên Khuê Văn Các có thể ngắm toàn cảnh quần thể công trình. Ô cửa tròn tượng trưng cho sao Khuê (tương tự Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội) đã được tái hiện ở Văn Miếu Trấn Biên. Phía sau Khuê Văn Các là một hồ rộng có tên Tịnh Quang. Các công trình ở đây đều được lợp ngói thanh lưu ly (ngói men màu xanh ngọc). Các công trình có bố cục hài hòa. Xen giữa các công trình là cây xanh lấy bóng mát và nhiều loại cây cảnh, cùng mặt nước tạo nên một không gian thoáng đãng.
Tiếp theo, sau hồ Tịnh Quang là Đại Thành Môn. Đây là một hạng mục kiến trúc đặc trưng của các Văn Miếu, dẫn vào khu thờ chính. Đại Thành Môn có kiến trúc kiểu tam quan, mái ngói; hai phía có tường gạch hoa. Sau Đại Thành Môn là tượng Khổng Tử – ông tổ của Nho giáo, đặt dưới một kiến trúc có mái, tiếp theo là sân hành lễ và nhà thờ chính. Nhà thờ chính là một kiến trúc 7 gian, hai chái với 3 tầng mái; có nhiều chi tiết đậm tính dân tộc, bên trong cột, kèo và các bao lam, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng.
Gian chính giữa nhà thờ là nơi thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian bên trái là nơi đặt bài vị và thờ tự những danh nhân văn hóa gắn liền với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và Nam Bộ xưa; bên phải là nơi đặt bài vị và thờ tự danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Phía trước hai bên nhà thờ chính là: Văn vật khố (nơi trưng bày 4 làng nghề truyền thống của Biên Hòa – Đồng Nai: nghề đồng, nghề mộc, nghề đá, nghề gốm); đăng đối với Văn vật khố là Thư khố – nơi trưng bày các thư tịch cổ, các tài liệu, sách báo… viết về lịch sử, văn hóa, con người vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai xưa và nay.
Văn Miếu Trấn Biên là một địa chỉ văn hóa đặc biệt ở Biên Hòa (Đồng Nai). Với không gian thoáng đãng và kiến trúc đặc sắc, đậm truyền thống văn hóa, hiếu học; nơi đây là điểm tổ chức nhiều sự kiện của địa phương như lễ Tết thầy cho học sinh, lễ hội hoa xuân, lễ hội báo xuân, lễ hội thơ, lễ báo công, lễ viếng tiền nhân… Đây là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị truyền thống, là nơi tưởng nhớ tổ tiên của người Việt ở phương Nam.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên sinh động sẽ giúp bạn đọc luyện tập cách hành văn giàu hình ảnh và cách diễn đạt khéo léo, ấn tượng.
Văn miếu Trấn Biên là văn miếu đầu tiên được xây dựng ở Đàng Trong, dưới thời các chúa Nguyễn. Đây là một trung tâm văn hóa – giáo dục quan trọng, ghi dấu quá trình di dân, mở cõi của người Việt ở phương Nam.
Văn miếu Trấn Biên tọa lạc tại phường Bửu Long (thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai), có lịch sử gắn liền với công cuộc mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý xứ Đồng Nai và sáp nhập vùng đất này vào nước Việt. Năm 1715, Văn miếu Trấn Biên được xây dựng để tôn vinh Nho giáo và tiếp nối truyền thống văn hóa của người Việt ở phương Nam. Đây là Văn miếu đầu tiên ở xứ Đàng Trong.
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, công trình nằm trên địa thế đẹp: “Phía nam trông ra sông Phước Giang, phía bắc dựa vào núi Long Sơn. Bên trong rường cột chạm trổ tinh xảo…”. Hằng năm chúa Nguyễn Phúc Ánh thường đích thân đến đây để hành lễ vào mùa xuân và mùa thu. Từ khi chúa lên ngôi ở Huế (năm 1802), quan tổng trấn thành Gia Định thay mặt vua, cùng trấn quan Biên Hòa và quan đốc học hành lễ.
Bên cạnh Văn miếu Trấn Biên là Tỉnh học (trường học tỉnh Biên Hòa). Đến đời vua Minh Mạng, trường học này được di dời về thôn Tân Lại (nay thuộc phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa). Như vậy, ngoài vai trò thờ phụng, Văn miếu Trấn Biên còn đóng vai trò như một trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Biên Hòa và Nam Bộ xưa, trước khi Văn miếu Gia Định ra đời vào năm 1824.
Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và phá bỏ công trình này. Năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm thành lập và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Văn miếu Trấn Biên được phục dựng trên nền đất cũ, có diện tích khoảng 5ha, trong đó, khu thờ chính rộng 2ha, được phục dựng theo các tư liệu cổ.
Các hạng mục công trình được xây đối xứng theo một trục thần đạo; lần lượt từ ngoài vào là Văn Miếu môn, nhà bia, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, Đại Thành môn, tượng Khổng Tử, sân hành lễ, Bái đường. Hai bên có các nhà tả – hữu là nhà Đề danh, Văn vật khố, Thư khố… Kiến trúc các hạng mục được thiết kế theo phong cách của thời Nguyễn, có sự tham khảo kiến trúc Văn miếu cổ trên cả nước, đặc biệt là Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội. Các công trình vẫn tuân theo phong cách truyền thống, tất cả đều lợp ngói thanh lưu ly (ngói men xanh ngọc).
Trong các hạng mục, đáng chú ý có Khuê Văn Các được mô phỏng theo Khuê Văn Các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám của Hà Nội với ô cửa tròn tượng trưng cho sao Khuê. Bái đường (nhà thờ chính) là một kiến trúc 7 gian, hai chái với 3 tầng mái. Đây là nơi thờ tự những danh nhân văn hóa Việt Nam. Phía trước là sân rộng để hành lễ và tổ chức các sự kiện văn hóa.
Gian chính giữa nhà thờ chính là nơi thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian bên trái đặt bài vị những danh nhân văn hóa gắn liền với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và Nam Bộ xưa như Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa; bên phải là nơi thờ các danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam gồm Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du. Hai bên hồi nhà có đặt chiêng và trống, bia Tiến sĩ khoa thi 1442…
Đặc biệt, nơi đây có đặt tủ thờ 18kg đất và 18 lít nước lấy từ di tích Đền Hùng (Phú Thọ) – biểu trưng cội nguồn dân tộc Việt… Phía trước hai bên nhà thờ chính là Văn vật khố (nơi trưng bày 4 làng nghề truyền thống của Biên Hòa – Đồng Nai gồm nghề đồng, nghề mộc, nghề đá, nghề gốm) và Thư khố – nơi trưng bày các thư tịch cổ, tài liệu về lịch sử, văn hóa của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai.
20 năm qua, Văn miếu Trấn Biên đã trở thành thiết chế văn hóa đặc biệt, không chỉ là nơi tôn vinh truyền thống hiếu học, trọng nhân tài, mà còn là nơi tôn vinh các cá nhân, tập thể đã đóng góp tích cực cho quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Với những giá trị lịch sử, văn hóa đặc biệt như vậy, Văn miếu Trấn Biên ngày càng khẳng định sức hấp dẫn của một điểm đến quan trọng trong hành trình thăm thành phố Biên Hòa của du khách.
Mời bạn đón đọc 🌜 Tả Cảnh Đẹp Đất Nước 🌜 15 Bài Văn Tả Hay Điểm 10
Bài văn mẫu thuyết minh về văn miếu Trấn Biên ý nghĩa sẽ đưa bạn đọc cùng khám phá những nét đặc trưng về lịch sử hình thành và những giá trị lịch sử của địa danh này.
Văn miếu Trấn Biên (phường Bửu Long, TP. Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai) được chúa Nguyễn Phúc Chu xây dựng năm 1715, với mục đích là nơi lưu giữ, tôn vinh, bảo tồn nét văn hoá, giáo dục của dân tộc. Đồng thời, Văn miếu đề cao Nho giáo và tôn vinh các danh nhân văn hóa đất Việt. Đây là văn miếu đầu tiên được xây dựng tại miền Nam, trước cả văn miếu ở Vĩnh Long, Gia Định và Huế.
Từ thuở sơ khai, văn miếu Trấn Biên được xem như là trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Biên Hòa nói riêng và khu vực Nam bộ nói chung. Ðây chính là biểu trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, hào khí dân tộc và văn hóa của người Việt ở đất phương Nam. Theo ban quản lý văn miếu Trấn Biên, năm 1698, khi Chưởng cơ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào đến xứ Đồng Nai, thì vùng đất ấy đã khá trù phú, có thương cảng sầm uất là Cù lao Phố.
Với mong muốn xây dựng một nơi để bảo tồn, phát huy và tôn vinh giá trị văn hóa giáo dục xưa và nay của người Việt, năm Ất Mùi 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu lệnh cho Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn miếu Trấn Biên tại thôn Tân Lại, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chán h (nay thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa). Kể từ khi xây dựng văn miếu, mỗi năm chúa Nguyễn đều đến đây 2 lần để hành lễ vào mùa xuân và mùa thu. Từ sau năm 1802, ông lên ngôi ở Huế, nên quan tổng trấn thành Gia Định cùng với trấn quan Biên Hòa và quan đốc học đến hành lễ thay ông.
Vào năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và thực hiện chính sách ngu dân, thống trị lâu dài nên đã tàn phá văn miếu Trấn Biên. Năm 1998, tỉnh Đồng Nai đã khôi phục lại Văn miếu Trấn Biên trên nền văn miếu cũ với diện tích gần 2 ha. Đến năm 2002, Văn miếu Trấn Biên lại được mở rộng, xây dựng thêm nhiều hạng mục có tổng diện tích 15 ha và trở nên khang trang, hoành tráng như hiện nay.
Cũng giống kiến trúc Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội), Văn miếu Trấn Biên được xây dựng gồm nhà thờ chính, tả vu hữu vu, sân hành lễ… Ngay từ cổng chính đi vào, lần lượt là nhà Bia, Khuê Văn Các, hồ Thiên Quang Tỉnh, cổng Đại Thành, nhà thờ Đức Khổng Tử và sau cùng là nhà thờ chính. Ở nhà bia, tấm bia đá kiên cố được khắc bài văn “Trấn Biên – Đồng Nai rạng rỡ ngàn năm văn hiến” do Giáo sư – Anh hùng lao động Vũ Khiêu biên soạn.
Bài văn có 8 phần, mỗi phần gồm 10 câu, khái quát về truyền thống văn hóa, giáo dục của dân tộc và của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Trong đó, bài văn nói về việc xây dựng văn miếu Trấn Biên, cũng như tinh thần hiếu học được khắc hoạ:
Theo giải thích của ban quản lý Văn miếu Trấn Biên, tên gọi các nhà ở Văn miếu đều mang ý nghĩa về học thuật. Khuê Văn Các là vẻ đẹp sao Khuê – ngôi sao chủ đạo trong bầu trời văn học; Thiên Quang Tỉnh nghĩa là giếng ánh sáng mặt trời; Đại Thành Môn chính là lớp cổng của sự thành đạt. Ngày xưa, các Nho sĩ đi thi đạt trình độ học vấn uyên thâm sẽ được bước qua lớp cổng Đại Thành này để vào khu thờ tự bên trong.
Ngoài ra, để thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo vì Khổng Tử là người khai sáng ra Nho giáo và Nho học, văn miếu Trấn Biên thờ Khổng Tử ở vị trí trang trọng trước nhà thờ chính. Sau nhà thờ Khổng Tử là một khoảng sân rộng, được gọi là sân Đại bái. Trước đây, Đại bái là nơi là diễn ra các buổi lễ quan trọng của Văn miếu Trấn Biên. Ngày nay, khoảng sân này được dùng để tổ chức tuyên dương, khen thưởng, báo công những thành tích đặc biệt trên các lĩnh vực mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Nai đạt được, nhất là về lĩnh vực văn hóa – giáo dục.
Bái Đường (nhà thờ chính) được xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái theo kiến trúc cổ, được sơn son thếp vàng, nền lát gạch, trên các cột nhà treo đôi liễn đối. Ngay giữa trung tâm, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh được đặt thờ trang trọng. Phía sau lưng tượng thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh trống đồng Ngọc Lũ – biểu tượng của nền văn hóa Việt Nam và Quốc tổ Hùng Vương.
Đối xứng hai bên tượng thờ Bác Hồ là bàn thờ phụng các danh nhân văn hóa dân tộc như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quí Đôn;.Danh nhân vùng đất Nam Bộ như: Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu.
Tại gian thờ này còn trưng bày 18 kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng (Phú Thọ), biểu trưng cho 18 đời vua Hùng, cội nguồn của dân tộc Việt và nhiều vật phẩm được tặng từ Văn miếu Quốc Tử Giám như: Trống hội Thăng Long (một trong 990 chiếc trống đã được gióng lên trong lễ hội 990 năm Thăng Long – Hà Nội), Văn bia tiến sỹ… Ngoài ra, nơi đây còn có khu sinh hoạt truyền thống để tổ chức các buổi họp mặt, tọa đàm giới thiệu và tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, con người vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai cũng như các hoạt động sinh hoạt văn hóa khác.
Không chỉ chứa đựng những giá trị về văn hóa, lịch sử, Văn miếu Trấn Biên còn là một công trình đặc sắc về nghệ thuật, kiến trúc với phong cảnh thoáng mát, vừa cổ kính vừa trang nhã nên thu hút động đảo nhiều tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh tới tham quan, tìm hiểu; được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các Bộ, ngành, các đoàn ngoại giao và các đoàn khách quốc tế tới thăm.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Ô Nhiễm Môi Trường, Bảo Vệ Môi Trường 🍀 Các Bài Văn Ấn Tượng
Tham khảo cách diễn đạt ngắn gọn, hàm súc với bài văn mẫu thuyết minh về văn miếu Trấn Biên ngắn hay sau đây:
Kể từ khi xây dựng vào năm 1715, Văn Miếu Trấn Biên (Biên Hòa – Đồng Nai) đã trở thành trung tâm đào tạo nhân tài của xứ Đàng Trong trong thời kỳ phong kiến. Ngày nay, Văn Miếu Trấn Biên là một địa điểm du lịch lý thú để giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của người Việt xưa trên bước đường khai phá vùng đất phương Nam.
Năm 1715, sau khi lập nên dinh Trấn Biên, nhằm có nơi để bảo tồn, phát huy và tôn vinh các giá trị văn hóa – giáo dục của dân tộc Việt trên vùng đất mới, Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đã sai Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn Miếu Trấn Biên. Đây chính là Văn Miếu đầu tiên được xây dựng tại xứ Đàng Trong, có trước cả Văn Miếu Huế (1808).
Sách Đại Nam nhất thống chí, bộ sách dư địa chí Việt Nam viết bằng chữ Hán, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào thời vua Tự Đức, có viết: “Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng trên thế đất đẹp, phía Nam trông ra sông Phước Giang, phía Bắc dựa vào núi Long Sơn, là một nơi cảnh đẹp thanh tú, cỏ cây tươi tốt. Bên trong rường cột chạm trổ, tinh xảo…”.
Vào năm 1794, Văn Miếu Trấn Biên được trùng tu và mở rộng quy mô với nhiều hạng mục: Đại thành điện, Đại thành môn, Thần miếu, Dục Thánh từ, Khuê Văn các, Dụng lễ đường, Sùng văn đường… Trước khi lên ngôi năm 1802, hàng năm chúa Nguyễn Phúc Ánh đều đến Văn Miếu Trấn Biên để hành lễ hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng thời gian sau đó, quan Tổng trấn thành Gia Định đã thay mặt vua, cùng với Trấn quan Biên Hòa và quan Đốc học đến hành lễ.
Cùng với những biến động của lịch sử, Văn Miếu Trấn Biên phải trải qua nhiều lần trùng tu. Đến năm 1998, nhân kỷ niệm Biên Hòa 300 năm hình thành và phát triển, Văn Miếu Trấn Biên đã được khởi công khôi phục lại trên nền đất cũ. Sau khi xây dựng hoàn thiện vào năm 2002, Văn Miếu Trấn Biên trở thành một tổng thể kiến trúc – nghệ thuật uy nghi, đẹp đẽ thuộc phường Bửu Long, Tp. Biên Hòa (Đồng Nai).
Đến Văn Miếu Trấn Biên, du khách sẽ được tham quan các hạng mục như: Nhà Bia, Khuê Văn Các, hồ Thiên Quang Tỉnh, cổng Đại Thành, nhà thờ Đức Khổng Tử và sau cùng là nhà thờ chính. Thông qua bài văn bia khắc trên hai mặt đá của Giáo sư – Anh hùng Lao động Vũ Khiêu biên soạn, du khách sẽ hiểu khái quát được truyền thống văn hóa, giáo dục của dân tộc và của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai.
Văn Miếu Trấn Biên đặt gian trung tâm để thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969), vị Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Sau lưng tượng thờ Chủ tịch là hình ảnh Trống đồng Ngọc Lũ, biểu tượng cho nền văn hóa Việt Nam. Phía gian bên trái nhà là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn… Gian bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu.
Mỗi năm, Văn Miếu Trấn Biên đón hàng trăm nghìn lượt khách tham quan. Tại đây, cũng diễn ra các hoạt động có ý nghĩa như: Lễ viếng các bậc tiền nhân, Lễ báo công, Tuyên dương tài năng trên các lĩnh vực, các hoạt động lễ hội, biểu diễn nghệ thuật, thả thuyền trên hồ
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên luyện viết không chỉ giúp các em học sinh nâng cao kỹ năng diễn đạt mà còn nuôi dưỡng niềm tự hào đối với quê hương, đất nước mình.
Câu hò mượt mà thấm đẫm tình quê ấy khiến ai nghe qua cũng đều muốn được một lần đặt chân đến Đồng Nai.
Về Đồng Nai, sẽ là thiếu sót nếu không đến thăm một trong những công trình kiến trúc mang đậm nét văn hóa, giáo dục và lịch sử mà những người con của vùng đất này luôn tự hào, đó là Văn Miếu Trấn Biên. Theo xa lộ Hà Nội, từ chúng tôi đi ra khoảng hơn 30 km, đến Tam Hiệp, TP.Biên Hòa, rồi theo tỉnh lộ 24, đến Bửu Long, rẽ vào 200m, xa xa thấp thoáng sau những rặng tre xanh mướt là những mái vòm cong vút nằm ẩn mình giữa khung cảnh yên tĩnh. Đó là Văn Miếu Trấn Biên. Nếu như đất bắc có Văn Miếu – Quốc Tử Giám thì trong nam có Văn Miếu Trấn Biên nêu cao tinh thần hiếu học, khí phách của người Nam bộ.
Theo sử sách, năm 1698 khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Đồng Nai, vùng đất này đã khá trù phú với thương cảng Cù Lao Phố sầm uất. Dưới sông, thuyền bè tấp nập, còn trên bờ là hoạt động buôn bán khá nhộn nhịp. Để có nơi bảo tồn, phát huy và tôn vinh các giá trị văn hóa giáo dục xưa và nay của dân tộc, năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu sai trấn thủ Nguyễn Phan Long và ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn Miếu Trấn Biên.
Sự thăng trầm của lịch sử vùng đất Nam bộ đã in hằn lên số phận của Văn Miếu Trấn Biên. Công trình này bị giặc Pháp đốt phá khi đánh chiếm Biên Hòa năm 1861. Sau 146 năm tồn tại, văn miếu đầu tiên ở Nam bộ bị hủy hoại dưới tay thực dân. Đến năm 1998, văn miếu mới được khôi phục lại và hoàn thành vào năm 2002 nhân kỷ niệm 300 năm Biên Hòa – Đồng Nai.
Từ cổng vào lần lượt là nhà bia, Khuê Văn các, hồ Tịnh Quang, cổng tam quan, nhà bia thứ hai và nhà thờ chính. Đứng trên Khuê Văn các, du khách có thể thấy toàn cảnh bức tranh Văn Miếu Trấn Biên. Trước cổng tam quan là hồ Tịnh Quang nước trong vắt có thể nhìn rõ từng đàn cá đủ sắc màu tung tăng bơi lội. Phóng tầm mắt ra xa là những hàng cây xanh tỏa bóng mát quanh năm, những luống hoa khoe sắc…
Qua nhà bia thứ hai là nhà thờ chính, được xây dựng theo kiến trúc cổ và đặc biệt nổi bật nhất là biểu tượng trống đồng gắn trên tường tượng trưng cho hồn dân tộc. Bên trái nhà thờ chính thờ các danh nhân văn hóa của Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn… Bên phải thờ các danh nhân làm rạng rỡ xứ Đàng Trong như Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông…
Ngoài việc thờ phụng các danh nhân văn hóa, ngày nay Văn Miếu Trấn Biên còn là nơi tổ chức lễ báo công, tuyên dương nhân tài trên các lĩnh vực, đồng thời cũng là địa điểm tổ chức các hoạt động tôn vinh các giá trị văn hóa, giáo dục mang tính truyền thống. Vào mùng 3 tết âm lịch hằng năm, sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong khu vực hội tụ về đây dâng hương, dâng hoa bày tỏ lòng tri ân đến các bậc hiền nhân cũng như bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo.
Đượm nét cổ kính, cảnh quan đẹp, lại nằm gần kề khu du lịch Bửu Long nên Văn Miếu Trấn Biên mỗi ngày đón một lượng lớn khách tham quan. Đặc biệt không biết tự khi nào, nơi đây đã trở thành địa điểm lý tưởng cho những đôi uyên ương với mong muốn ghi lại những hình ảnh của một thời hạnh phúc nhất trong đời.
Đón đọc tuyển tập 🌟 Bài Văn Tả Cảnh Đẹp Quê Hương 🌟 15 Bài Điểm 10
Bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên đơn giản với cách viết ngắn gọn, súc tích sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp.
Vào đời vua Hiển Tông năm Ất Vị thứ 25 (tức năm 1715), Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức chọn thôn Bình Thành và thôn Tân Lại, tổng Phước Vĩnh (nay là phường Bửu Long, TP Biên Hòa) để xây dựng văn miếu Trấn Biên, có vai trò như một trung tâm văn hóa – giáo dục của vùng đất này.
Ngày nay, dấu vết cũ không còn, dựa vào thư tịch cổ, các nhà khoa học, cùng với lãnh đạo tỉnh Đồng Nai đã xác định nơi có đặc điểm giống như miêu tả trong sách của Trịnh Hoài Đức. Đó là khu vực hồ Long Vân, thuộc Khu du lịch Bửu Long, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa. Quần thể công trình Văn miếu Trấn Biên có diện tích xây dựng gần 20.000 mét vuông (2 ha), nằm trên khu đất cao.
Vì Văn miếu Trấn Biên là công trình kiến trúc vừa có ý nghĩa hiện đại, vừa mang dấu ấn lịch sử truyền thống, nên khi quan điểm thiết kế, mà trước hết là quan điểm lựa chọn thế đất có sự kết hợp giữa quan niệm cũ và quan niệm mới. Theo quan niệm kiến trúc xưa, các công trình xây dựng đều tuân theo nguyên tắc nhất định phù hợp với thế của đất và trời, tạo thành thể tống nhất Thiên – Địa – Nhân hòa hợp. Nguyên tắc này khiến cho nơi cư trú hoặc thờ phụng của con người tận dụng được tối đa những yếu tố thuận lợi của tự nhiên và hạn chế tối thiểu những tác động xấu của thiên nhiên, thời khí.
Văn Miếu Trấn Biên được tỉnh Đồng Nai xây dựng lại năm 1998 dựa trên kiến trúc và nền đất cũ với tổng diện tích trên 9 héc ta. Văn miếu Trấn Biên là một quần thể kiến trúc tập hợp nhiều công trình. Mỗi một công trình vừa là thành tố của cả quần thể, vừa có chức năng riêng. Văn Miếu Trấn Biên bắt đầu từ Văn Miếu Môn, lần lượt là nhà Bia, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, cổng Đại Thành, nhà thờ Đức Khổng Tử và sau cùng là Điện thờ chính (Bái đường).
Bái đường được chia làm năm gian. Gian chính đặt bàn thờ Bác Hồ, phía sau tượng Bác là hình ảnh Trống đồng Ngọc Lũ biểu tượng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương. Gian bên trái là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn… Gian bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như: Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Chiểu…
Tại Văn Miếu Trấn Biên còn có Bia Tiến sĩ được khắc bằng đá xanh với dòng chữ lớn đầu tiên “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Việc bảo vệ, gìn giữ những di tích lịch sử có ý nghĩa sâu sắc như Văn Miếu Trấn Biên là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm phát huy những giá trị văn hóa, khẳng định vị thế của Văn Miếu Trấn Biên trong đời sống tinh thần của người dân Đồng Nai và người dân cả nước.
Tìm hiểu nhiều hơn 💧 Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Truyền Thống 💧 15 Mẫu Hay
Bài văn thuyết minh về văn miếu Trấn Biên lớp 8 sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý và ý tưởng hay để thực hiện bài viết của mình.
Văn miếu Trấn Biên xây năm 1715, là Văn miếu đầu tiên được xây dựng ở xứ Đàng Trong, hiện nay nằm ở phường Bửu Long, Biên Hòa, Đồng Nai. Năm 1715, sau 17 năm sáp nhập vùng đất địa đầu Nam Bộ vào lãnh thổ nước Việt, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây dựng Văn miếu Trấn Biên, góp phần tiếp nối mạch nguồn văn hóa, truyền thống trọng học của dân tộc Việt Nam trên mảnh đất Nam Bộ.
Văn miếu có 2 lần trung tu lớn là năm 1794 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Ánh, và năm 1852 thời vua Tự Đức thứ 5. Đến năm 1998, nhân dịp kỷ niệm kỷ 300 năm thành lập và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Văn miếu được phục dựng lại vị trí cũ và hoàn thành 4 năm sau đó, nhằm tôn vinh các danh nhân văn hóa tiêu biểu dưới hình thức tín ngưỡng dân gian truyền thống. Vị trí của Văn miếu hiện ở phường Bửu Long, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, cách trung tâm thành phố khoảng 3 km, và gần Trung tâm Văn hóa Du lịch Bửu Long.
Khu thờ tự chính của Văn miếu rộng 2 ha. Từ cổng vào lần lượt là nhà bia, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, cổng Tam Quan, nhà bia Khổng Tử và khu thờ chính. Xung quanh còn có nhà truyền thống, thư khố, văn vật khố chứa đựng nhiều hiện vật quý giá gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Văn miếu Trấn Biên được phục dựng lại từ những tư liệu cổ, những mô tả trong Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí. Kiến trúc của khuôn viên được thiết kế theo kiến trúc thời Nguyễn và tham khảo kiến trúc văn miếu cổ trên cả nước, trong đó có Quốc Tử Giám ở Hà Nội. Nhìn từ trên cao công trình nổi bật với màu ngói lưu ly xanh ngọc bằng gốm tráng men.
Trong khu thờ chính, gian trung tâm thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Gian bên trái thờ các vị danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam gồm: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du. Gian bên phải thờ những danh nhân văn hóa gắn liền với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và Nam Bộ xưa: Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa.
Trong gian thờ tự còn có các hiện vật mang tính gắn kết, nối tiếp mạch nguồn dân tộc như: Văn bia Tiến sĩ khoa thi 1442 (phục chế), Trống hội Thăng Long, Tủ thờ 18 ký đất và 18 ký nước lấy từ Đền Hùng…
Với không gian thoáng đãng, xanh mát và mang đậm giá trị truyền thống hiếu học của dân tộc, mỗi năm Văn miếu Trấn Biên đón khoảng 300.000 lượt khách tham quan. Vào lễ Tết, nơi này thường tổ chức Tết Thầy cho các em học sinh, lễ hội hoa xuân, hội báo xuân tỉnh Đồng Nai cùng nhiều hoạt động về nguồn, tưởng nhớ tổ tiên, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thời đại mới.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Văn Miếu Trấn Biên là một địa chỉ văn hóa đặc biệt ở TP Biên Hòa (Đồng Nai). Trải qua hơn 300 năm tồn tại, nơi đây bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hoá dân tộc, qua đó góp phần giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng cho các thế hệ.
Cách nay hơn 300 năm, Văn miếu Trấn Biên đã được Chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây dựng tại thôn Tân Lại, huyện Phước Chánh (nay thuộc phường Bửu Long, TP Biên Hòa) với ý nghĩa nối tiếp, kế thừa truyền thống văn hiến Thăng Long – Hà Nội gắn liền với sự nghiệp mở mang bờ cõi của dân tộc. Văn miếu Trấn Biên được xem là biểu tượng văn hóa – lịch sử, mạch nguồn kết nối các giá trị văn hóa của vùng đất Trấn Biên xưa – Biên Hòa nay.
Kể từ khi xây dựng (năm 1715), Văn miếu Trấn Biên được trùng tu hai lần vào năm 1794 và 1852 với quy mô lần sau lớn hơn lần trước. Năm 1861, sau khi chiếm Nam kỳ, thực dân Pháp đã phá hủy hoàn toàn Văn miếu Trấn Biên nhằm hủy hoại một biểu trưng về văn hóa của xứ Đồng Nai nói riêng và phương Nam nói chung. Đến năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Văn Miếu Trấn Biên mới được phục dựng trên nền đất cũ có diện tích khoảng 5ha. Từ đây khu di tích này trở thành một thiết chế văn hóa tâm linh, nơi báo công, tuyên dương những giá trị văn hóa, khoa học, giáo dục…của Đồng Nai.
Văn miếu Trấn Biên dành nơi trang trọng nhất trong Nhà bái đường thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian bên trái là nơi đặt bài vị và thờ tự những danh nhân văn hóa gắn liền với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và Nam bộ xưa. Gian bên phải là nơi đặt bài vị và thờ tự danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Đặc biệt, từ năm 2014, tỉnh Đồng Nai có chủ trương xây dựng Vườn tượng Danh nhân văn hóa Trấn Biên. Bằng nguồn xã hội hóa, đã có 13 tượng danh nhân thực hiện, các tượng được chế tác trên chất liệu đá xanh Bửu Long và 1 bức phù điêu của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ.
Với những giá trị văn hóa, lịch sử to lớn, ngày 18-8-2023 Bộ VH-TTDL đã công nhận di tích cấp quốc gia Văn miếu Trấn Biên. Như vậy, tính đến tháng 8-2023, tỉnh Đồng Nai đã có 62 di tích được xếp hạng với nhiều loại hình như lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ, danh lam thắng cảnh. Trong đó có 2 di tích xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt, 29 cấp quốc gia và 31 di tích cấp tỉnh.
Trải qua thời gian với sự tác động của thiên nhiên khiến nhiều hạng mục của di tích Quốc gia Văn miếu Trấn Biên hiện đang bị xuống cấp nghiêm trọng cần được trùng tu, tôn tạo. Trong đó, hạng mục Nhà truyền thống đang bị bong tróc lớp vữa áo, gây nguy hiểm cho người tham quan bên trong. Nền gạch ở Nhà bái đường sụt lún nghiêm trọng, nhiều viên gạch lát nền đã bị vỡ. Hạng mục Khuê Văn của Văn miếu Trấn Biên hiện cũng bị ngấm nước mưa thấm dột xuống tầng dưới. Tại Nhà đề danh, nền móng có hiện tượng sụt lún, khối ốp móng bị tách rời nền móng.
Trong thời điểm giãn cách xã hội, các di tích không tổ chức các sinh hoạt để phòng, chống dịch Covid-19 nhưng Văn miếu Trấn Biên duy trì một số hoạt động vệ sinh, chỉnh trang cảnh quan, cây xanh trong khuôn viên. Chờ khi dịch cơ bản được khống chế, Văn miếu sẽ tiếp tục các hoạt động, sự kiện nhằm gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa, nhất là vào các dịp lễ, Tết; tăng cường kết nối với các khu, điểm du lịch trên địa bàn cũng như áp dụng công nghệ trong việc kể câu chuyện di sản… Qua đó, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Văn Miếu Trấn Biên mang nhiều giá trị, ý nghĩa về văn hóa, giáo dục, lịch sử nên thu hút rất nhiều du khách đến tham quan. Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng là biểu tượng cho truyền thống học tập, nơi thờ các danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước và là nơi phụng thờ hào khí, văn hóa của người Việt phương Nam.
Gửi đến bạn 🍃 Thuyết Minh Về Loài Hoa Ngày Tết 🍃 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất
Thuyết Minh Về Núi Cấm ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Núi Cấm ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Giúp Học Sinh Luyện Tập Và Nâng Cao Kỹ Năng Viết.
Tham khảo mẫu Dàn Ý Thuyết Minh Về Núi Cấm sau đây để triển khai bài văn logic nhất.
Mở bài: Giới thiệu đối tượng thuyết minh: Núi Cấm – An Giang
Thân bài
Giới thiệu khái quát:
Vị trí địa lí, địa chỉ
Diện tích
Phương tiện di chuyển đến đó
Khung cảnh xung quanh
Giới thiệu về nguồn gốc
Ý nghĩa tên gọi hoặc tên gọi khác (nếu có)
Giới thiệu về cảnh vật xung quanh núi Cấm
Kết bài: Khẳng định lại một lần nữa giá trị, ý nghĩa của đối tượng thuyết minh.
Xem Thêm Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Núi Bà Đen ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
An Giang vùng đất mang trong mình vẻ đẹp thuần khiết, bình dị của vùng sông nước miền Tây, là sự kết hợp giữa cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, nên thơ vừa là sự pha trộn giữa nhiều nền văn hóa giữa các dân tộc. Nhắc đến An Giang là nhắc đến sự mộc mạc, hùng vĩ, một trong số đó phải kể đến núi Cấm, là một điểm du lịch không thể bỏ qua cho bất cứ du khách nào muốn tìm hiểu về du lịch tâm linh.
Núi Cấm hay còn gọi là Thiên Cấm Sơn, là ngọn núi cao và lớn nhất trong dãy thất sơn hùng vĩ thuộc địa phận tỉnh An Giang, nằm trong khu tam giác Tịnh Biên-Nhà Bàng-Tri Tôn. Núi Cấm có vị trí địa lý vô cùng đặc biệt, nằm cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 90km và cách thành phố Châu Đốc khoảng 37km. Đây còn là ngọn núi cao nhất Đồng Bằng Sông Cửu Long, đỉnh Bồ Hong cũng là đỉnh núi cao nhất trong Thất Sơn với chu vi 28600m và độ cao 705m.
Với độ cao này, từ trên Bồ Hong nhìn xuống là chùa Phật Lớn, núi Cấm mang trong mình vẻ hùng vĩ, uy nghi, rộng lớn, cảm giác như một các lòng chảo lớn giữa vùng đồng bằng sông cửu long đươc bao quanh bởi các ngọn núi san sát liền kề. Vì ở trên độ cao như vậy, là điều khiến cho khí hậu ở đây trở nên vô cùng mát mẻ, thanh khiết với cảnh sắc thiên nhiên sinh động, người dân đặt cho nó với cái tên là Đà Lạt thứ 2 của vùng đồng bằng Sông Cửu Long.
Núi Cấm từ ngày xa xưa đã được biết đến là ngọn núi linh thiêng, huyền bí nhất trong vùng Bảy núi. Về tên gọi cũng là một vấn đề luôn được du khách quan tâm, bởi nó còn có tên gọi chính thức bằng văn tự là Cấm Sơn. Trong sách còn miêu tả danh lam thắng cảnh này là một nơi “thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt,…” Còn theo tương truyền trước đây ngọn núi còn có tên gọi khác ấn tượng hơn là Đoài Tốn.
Truyền thuyết kể lại rằng, xưa núi Cấm là khu vực vô cùng nguy hiểm, hiểm trở lai có cả những loài thú hung dữ, không một ai dám đến đó ngoai trừ những nhân vật siêu nhiên mà được người dân tương truyền kể lại. Đây là một khu vực linh thiêng, ngày xưa tướng Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn vây đuổi đã chạy trốn ở đây và không cho phép ai vào nên từ đó người dân gọi đây là núi Cấm.
Núi cấm quanh năm mây mù giăng phủ, trên đỉnh núi có đỉnh Bát Tiên là nơi mà du khách có thể ngắm nhìn biển Hà Tiên hay dãy núi Tà Lơn trên mảnh đất địa Campuchia. Từ chân núi lên đến đỉnh núi đều được tráng nhựa để thuận tiên đi lại, hai bên đường là những vách đá thẳng đứng sừng sững làm bệ cho những dòng thác chảy ào ạt. Núi Cấm được bao bọc trong những rừng cây xanh ngút bạt ngàn đan xen những cây cỏ hoa lá sắc màu, khung cảnh toát lên vẻ yên bình, thanh tĩnh, tươi mát như cõi bồng lai tiên cảnh.
Dưới chân núi chệch về hướng đông của núi Cấm là khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm, là nơi phục vụ các đa dạng các loại hình giải trí, nhà hàng, khách sạn với diện tích rộng khoảng 100ha. Từ chân núi đi theo lối mòn của núi du khách sẽ lại một lần nữa đắm chìm vào sự tươi mát, thoáng đãng của dòng suối Thanh Long. Đây là dòng suối có nguồn gốc bắt nguồn từ mạch nước ngầm trong lòng đá len lỏi qua các khe đá tạo nên một dòng suối lớn.
Đi từ chân núi lên đến đỉnh núi đều là những địa điểm hấp dẫn, mỗi nơi lại có những sự tích li kì riêng biệt, làm nên một không gian huyền ảo, sống động mang đầy màu sắc tín ngưỡng, truyền thống của dân tộc. Với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, rừng cây bạt ngàn sừng sững trăm năm tất cả đã góp phần tạo nên một núi Cẩm hùng vĩ, nên thơ, trở thành một khu du lịch sinh thái lí tưởng mỗi khi nhắc đến An Giang.
Đến khám phá núi Cấm, ngoài cảnh quan sinh động huyền bí còn là sự đa dạng về nhiều loại ẩm thực đặc trưng như xoài núi, mít núi, sầu riêng, mảng cầu núi. Nói đến địa điểm ấn tượng khi du lịch núi Cấm phải kể đến tượng phật Di Lặc, được coi là một công trình kiến trúc đồ sộ nhất từ trước đến nay trên vùng Bảy Núi.
Bức tượng phật Di Lặc với chiều cao 3360m đứng trong hàng cao nhất Đông Nam Á vẫn sừng sững trải qua bao thăng trầm của thời gian. Điều ấn tượng là dù ở bất cứ chổ nào trên các vồ núi cũng có thể ngắm nhìn chiêm ngưỡng hình tượng phật trắng sáng uy nghi giữa cả một vùng trời rộng lớn với sự hiền từ bao dung và thánh thiện.
Núi Cấm giờ đây đã trở thành địa điểm hành hương, bái lễ của du khách, là nơi linh thiêng, huyền bí thu hút với vẻ uy nghi rộng lớn đến khó tả. Núi Cấm mang vẻ đẹp hoang sơ, kỳ bí nơi giao thoa giữa đất trời chìm đắm trong chiều dài lịch sử hơn một thế kỷ. Giữa một vùng trời tươi mát, giữa bạt ngàn rừng cây xanh trái ngọ của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Núi Cấm hiện lên sừng sững giữa không gian mang đến cho du khách một cảm giác dịu êm, một khúc ca lãng du hoang sơ em dịu giữa đồng bằng rộng lớn.
Chia Sẻ Bài 🌹 Thuyết Minh Về Núi Sam, Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam ❤️️ 15 Bài
Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Núi Cấm Ngắn gọn và súc tích thể hiện qua từng câu văn, hình ảnh chân thực và sáng tạo.
Núi Cấm hay còn gọi là núi Ông Cấm có tên chữ là Thiên Cấm Sơn, nằm trong khu tam giác Tịnh Biên – Nhà Bàng – Tri Tôn, là một trong những ngọn núi của dãy Thất Sơn, tỉnh An Giang. Núi Cấm là ngọn núi cao và hùng vĩ nhất trong cụm bảy núi với độ cao 705m và được nhiều người trân trọng như là một ngọn núi thiêng liêng với nhiều giai thoại trong dân gian.
Từ xa xưa núi Cấm có tên là núi Gấm, Thiên Cấm Sơn, Thiên Cẩm Sơn, được mệnh danh là một ngọn núi đẹp như gấm lụa. Không những vậy, nơi đây được mệnh danh là Đà Lạt của đồng bằng sông Cửu Long, và là nơi nhuốm màu huyền bí, là chốn linh thiêng dành riêng cho bậc chân tu hay thần tiên giáng thế.
Nhiệt độ núi Cấm dao động từ 18 đến 24 độ, mát mẻ quanh năm, do đó, thảm thực vật cũng nở nên đa dạng. Núi được che phủ bởi hơn 815 loài cây rừng như thông, ngọc lan, thạch tùng, thiên tuế, dương xỉ, … Những buổi sáng, cảnh vật nhuốm màu sắc đẹp lạ thường. Hòn núi từ màu xám đổi sang màu tím, rồi màu hồng – ngả qua màu nhạt… lóng lánh hạt sương như những viên kim cương nhiều màu hiếm có.
Theo sách phong thủy, núi Cấm là một long huyệt, chạy dọc theo An Giang, nằm giữa vùng đồng bằng được phù sa bồi đắp, đây chính là nơi sở hữu thiên thời địa lợi, địa thế đẹp, và là khu du lịch sinh thái lý tưởng.
Rồi về Ông Bướm với hai khối đá kết lại giống hình hai con bướm tựa vào nhau, có nguyệt điện du khách thường vào đấy thám hiểm. Còn có điện Cây Quế, điện Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ, hang Bác Vật Lang, đến động Thủy Liêm. Từ trên đỉnh núi, bạn có thể thỏa sức ngắm nhìn An Giang bé nhỏ, những cánh đồng lúa bát ngát xanh tươi.
Núi Cấm cũng đẹp về đêm, khi trăng treo lơ lửng trên đầu núi. Âm thanh sống động từ thiên nhiên, núi rừng, sương rơi lóng lánh trên lá cây. Cảnh sắc thiên nhiên này xứng đáng được người đời chiêm ngưỡng.
Cho dù với cách lý giải nào thì thực tế, núi Cấm là một thực thể do thiên nhiên tạo nên, qua ngần ấy thời gian tồn tại, đã đi vào đời sống tinh thần của người dân Tây Nam Bộ bằng sự kết nối những giai thoại truyền thuyết dân gian và niềm tin tôn giáo. Chùa Phật Lớn – nơi tu sĩ Bảy Do tụ nghĩa rèn quân chống giặc Pháp xâm lược. Chùa Vạn Linh được bao nhiêu tín đồ phật giáo tôn thờ.
Núi Cấm tồn tại từ xưa đến nay như một biểu tượng tâm linh, theo thời gian hình thành nên nhiều yếu tố văn hóa tâm linh khác không kém phần đa dạng, phong phú.
Giới Thiệu Bài 💧 Thuyết Minh Về Núi Tà Cú ❤️️ 13 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Núi Cấm An Giang Ngắn Nhất giúp các em có thể học hỏi và ôn tập thật tốt.
Núi Cấm hay núi Ông Cấm là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng ở vùng đất An Giang. Đến đây, bạn như lạc vào một bức tranh sơn thủy thiên nhiên hữu tình của vùng núi Thất sơn hùng vĩ nhưng không kém phần huyền bí. Có thể ví núi Cấm Sơn như một “Đà Lạt thu nhỏ” tại miền Tây với khí hậu khá mát mẻ. Bên cạnh đó, đây còn là trung tâm hành hương lớn nhất ở miền Tây mà bạn không thể bỏ qua.
Núi Cấm (Cấm Sơn) còn được gọi là núi Ông Cấm, Thiên Cấm sơn hay Đoài Tốn. Người địa phương còn gọi nó là Thiên Cẩm Sơn với ý nghĩa núi đẹp như gấm, lụa. Núi còn có tên Khmer là Pnom ta piel hay Pnom po piêl. Nhiều du khách gọi là núi Cấm Châu Đốc An Giang do núi nằm gần Châu Đốc. Hiện nay, có rất nhiều lý giải về tên gọi cũng như nguồn gốc của ngọn núi huyền bí này với nhiều giả thuyết khác nhau.
Theo Giáo sư Nguyễn Văn Hầu: sở dĩ tên núi Cấm được đặt tên vậy là do vùng núi này cao nhất, hoang dã, cây cối mọc tràn lan, đá nằm ngang dọc gồ ghề, không có đường mòn, khó đi. Cảnh hoang vu đó rất thuận tiện cho những tay “Lương Sơn Bạc” tụ tập để gây rối cho dân làng. Muốn giữ sự yên bình cho người dân, nhà chức trách ở tỉnh đương thời mới ra lệnh cấm họ ở trên này.
Cũng theo ông: Đoàn Minh Huyên (tức Phật Thầy Tây An) đã cấm các tín đồ của mình lên đó cất nhà lập am, bởi sợ sẽ ô uế chốn núi thiêng.Ở 1 giả thuyết khác, khi Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy nã, đã chạy vào núi này để ẩn trốn. Muốn tông tích không bị bại lộ, nên các quan đại thần tung tin đồn là trên núi có thú dữ, yêu quái man rợ để cấm người dân lên núi. Cũng có người đồn rằng tướng cướp Đơn Hùng Tín có lúc lên núi này làm sào huyệt. Sợ bị lộ chỗ trốn, anh ta đã cấm người dân lên núi.
Núi Cấm thuộc địa bàn của xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Núi cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 90 km và cách thành phố Châu Đốc khoảng 37 km. Ngọn núi với độ cao khoảng 705m so với mực nước biển với đỉnh núi cao nhất nằm trên điện Bồ Hong. Nằm trong dãy thất sơn hùng vĩ, Thiên Cấm Sơn được xem là núi cao nhất ở Đồng bằng Sông Cửu Long.
Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Núi Mẫu Sơn ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Núi Cấm Hay Nhất giúp các em có thêm nhiều kiến thức hay và nâng cao kĩ năng viết của mình.
Nằm cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 90km theo Quốc lộ 91 rẽ qua tỉnh lộ 948, núi Cấm hay Thiên Cấm Sơn, là ngọn núi cao nhất, lớn nhất nằm trong dãy Thất Sơn hùng vĩ thuộc xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Ở độ cao 710m từ trên Vồ Bò Hong nhìn xuống chùa Phật Lớn (thuộc ấp An Bình, xã An Hảo), núi Cấm uy nghi, hùng vĩ mọc lên giữa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đứng trên đỉnh Cấm Sơn, du khách ta có cảm giác một lòng chảo lớn bao quanh bởi các ngọn núi trập trùng thuộc Thiên Cấm Sơn như: Võ Đầu, Vồ Bò Hong, Vồ Thiên Tuế… Chính vì độ cao và địa hình như vậy, nên từ lâu Núi Cấm được mệnh danh là Đà Lạt thứ 2 của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nơi đây có khí hậu mát mẻ quanh năm, nhiều thắng cảnh thiên nhiên độc đáo, thu hút khách du lịch, hành hương nơi đây sẽ đến với những huyền thoại, truyền thuyết đầy vẻ kỳ thú, bí ẩn.
Danh lam thiên cấm sơnVề tên của ngọn núi, truyền thuyết dân gian kể lại rằng: Trước kia Núi Cấm rất hiểm trở, lại nhiều thú dữ, không ai dám tới, trừ những nhân vật siêu hình được thêu dệt một cách huyền bí, ngự trị trên thiên đình. Vì thế, một quy định bất thành văn của những người dân quanh vùng tự cấm mình không được xâm phạm đến khu vực núi thiêng đó. Một truyền thuyết khác kể lại rằng, ngày xưa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh phải chạy lên núi trốn nên truyền lệnh không cho bất cứ ai lên núi và từ đó núi có tên là Núi Cấm.
Dưới chân núi về phía Đông là khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm, diện tích khoảng 100ha có các dịch vụ giải trí đa dạng. Từ Lâm Viên theo lối mòn lên núi, du khách có thể dừng bước chân lãng du đầm mình trong dòng suối Thanh Long mát rượi, một con suối thiên nhiên, thơ mộng, vừa để nghỉ dưỡng sức khoẻ. Tiếp tục cuộc hành trình lên đến ngã ba, du khách đã bước vào khu “Cao nguyên Núi Cấm”.
Tại đây, vào ngày thời tiết không mưa, nắng đẹp bạn có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn ra tận vùng biển Hà Tiên. Giữa mênh mông, bạt ngàn màu xanh cây trái của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Cấm Sơn hiện hữu, sừng sững đem đến cho du khách một cảm nhận mới, một khúc lãng du êm dịu giữa đồng bằng.
Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em❤️️ Ngắn Hay
Núi Cấm (Cấm Sơn) còn được gọi là Núi Ông Cấm hay Thiên Cấm sơn, Thiên Cẩm Sơn ; tên Khmer: Pnom ta piel hay Pnom po piêl; là một ngọn núi tại địa phận xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, Việt Nam.
Núi Cấm nằm trên địa bàn xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, cách trung tâm TP Long Xuyên khoảng 90 km theo Quốc lộ 91 rẽ qua tỉnh lộ 948, và cách thành phố Châu Đốc khoảng 37 km. Núi có độ cao 705 m, chiếm chu vi 28.600 m,đỉnh Bồ Hong trên núi Cấm là đỉnh núi cao nhất trong Thất Sơn và núi Cấm cũng là ngọn núi cao nhất Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Núi Cấm tức Cấm Sơn là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trong Đại Nam nhất thống chí được biên soạn vào cuối thế kỷ 19. Sách đã miêu tả: …thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt, là một trong Bảy Núi. Vì núi cao nên ít người lên đến chót.
Còn trước đó, theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ngọn núi này được gọi là núi Đoài Tốn. Và tác giả cho biết núi cao 50 trượng, chu vi 20 dặm dư hình như cái đài cao, nghiễm nhiên ở về cung Thìn Tỵ nên gọi là núi Đài Tốn…Núi cao đột ngột, sinh sản các loài trầm hương, tốc hương, súc sa, cây sao, giáng hương, thông tre. Cây cối tốt tươi có đường cong queo thông trong núi sâu, dấu người qua lại, gần nơi đồng ruộng, xa có bến nước, kẻ cày cấy, người đánh cá chia từng loại ở nơi chân núi…
Có nhiều giả thuyết về cái tên núi Cấm: Theo GS. Nguyễn Văn Hầu, giả thuyết đáng tin cậy hơn cả là Đoàn Minh Huyên (tức Phật Thầy Tây An) đã cấm các tín đồ của mình lên đó cất nhà lập am, bởi sợ sẽ ô uế chốn núi thiêng.
Một giả thuyết khác, Nguyễn Phúc Ánh khi bị quân Tây Sơn truy nã, có lúc phải vào núi này nương thân. Muốn tông tích được giấu kín, các cận thần phao tin có ác thú, yêu quái, để cấm dân chúng vào núi.
Xem Thêm Bài 💦 Thuyết Minh Về Hồ Núi Cốc ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thiên Cấm Sơn có tên gọi dân dã núi Cấm, là ngọn núi cao nhất trong dãy Thất Sơn của tỉnh An Giang, đứng sừng sững giữa đồng bằng như viên tướng khổng lồ trấn thủ vùng biên thuỳ Tây Nam.
Thiên Cấm Sơn hợp thành cùng Cửu Long Giang ở ngã ba sông Hậu và sông Châu Đốc tạo thành bức tranh sơn thủy hữu tình “Tiền Tam giang, hậu Thất lĩnh”. Từ ngọn núi cao nhất vồ Bồ Hong với 716m, du khách nhìn xuống khu vực Thiền viện Phật Lớn giống như một lòng chảo được vòng quanh bởi các đỉnh chóp núi trùng lớp kì thú. Đây là vùng cao nguyên trù phú giữa lòng núi Cấm, thích nghi hợp trồng trọt các loại cây nhiệt đới lẫn ôn đới, hầu hết năm kỹ nghệ trái xanh tươi đủ sắc màu.
Xung quanh cái mang danh núi Cấm có những truyền thuyết khác nhau. Có người nhận định rằng rằng do chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi, trốn lên đây và ra lệnh cấm không cho bất cứ người dưng nào lên núi. tuy mà , xa xưa hơn nữa tên núi Cấm vốn đã xuất hiện.
Các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng trong dãy Thất Sơn có 5 non nằm ở núi Cấm, nhưng thực ra còn nhiều hơn. Ngoài 5 non vồ Đầu, vồ Bồ Hong, vồ Bà, vồ Ông Bướm, vồ Thiên Tuế còn có vồ Ông Tà, vồ Chư Thần, vồ Bạch Tượng, vồ Pháo Binh, vồ Sân Tiên… tạo thành thế liên hoàn các chóp núi rất có một không hai. có lẽ vì vậy núi Cấm vốn còn có cái tên là núi Gấm. vẻ đẹp thiên nhiên phân phát đã tạo cho Thiên Cấm Sơn trở thành một địa điểm thú vị tưởng cho du lịch sinh thái lẫn yếu tố âm dương.
Xem Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Pác Bó ❤️️15 Bài Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Núi Cấm Đơn Giản giúp các em có thể trau dồi thêm nhiều kĩ năng viết và cách dùng từ ngữ đặc sắc.
Mảnh đất An Giang nổi tiếng bởi cảnh quan thiên nhiên nhuốm màu sắc huyền bí, trong đó phải kể đến vùng Bảy Núi hay Thất Sơn. Nổi bật trong dãy Thất Sơn là ngọn núi Cấm cao khoảng 710m so với mực nước biển trung bình. Núi Cấm còn gọi là Thiên Cấm Sơn, nằm ngay trung tâm của vùng Bảy núi chính vì thế núi Cấm có vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ.
Đặc biệt, đỉnh Bồ Hong ở trên núi Cấm chính là đỉnh núi cao nhất trong Thất Sơn và cũng là ngọn núi cao nhất Đồng Bằng Sông Cửu Long. Với khí hậu mát mẻ được ví như một phiên bản “Đà Lạt” của miền Tây, Núi Cấm trở thành điểm tham quan, vui chơi, chiêm bái hấp dẫn bậc nhất trong các điểm du lịch An Giang.
Núi Cấm – ngọn núi cao và hùng vĩ nhất trong cụm Thất Sơn được nhiều người mộ đạo coi là ngọn núi thiêng với nhiều tên gọi khác nhau. Từ xa xưa núi Cấm có tên là núi Gấm, Thiên Cấm Sơn, Thiên Cẩm Sơn (núi đẹp như gấm lụa). Cho tới nay vẫn còn nhiều giả thuyết về nguồn gốc núi Cấm, mỗi người có cách lý giải theo suy luận riêng của mình.
Tương truyền ngày xưa núi Cấm vô cùng hiểm trở và có nhiều thú dữ, ít ai lui tới nên trở thành một vùng sơn lâm bí ẩn. Lợi dụng sự hoang vu tịch mịch nhiều nhà sư đã tìm đến ẩn tu, các phường lục lâm thảo khấu cũng như những đảng cướp vùng biên thùy phức tạp nầy cũng lấy núi Cấm làm căn cứ.
Để không bị lộ, họ phao tin đồn rằng trên núi có rất nhiều thần linh, người dân không được bén mảng tới, ai vô cớ đặt chân lên sẽ bị quở phạt, về lâm bệnh mà chết. Người dân thời bấy giờ rất sợ và gọi đó là núi Cấm. Một truyền thuyết mang tính lịch sử là Nguyễn Ánh bị quân binh Tây Sơn truy nã đến đây, ông và đoàn tùy tùng chạy lên núi Cấm ẩn trú.
Để yên bề bí mật, các cận thần của Nguyễn Ánh cho người đi phao tin rằng trong núi đầy yêu tinh, ác thú nhằm hạn chế sự nhòm ngó của dân lành. Hay lời cấm đoán của Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên cấm không cho bổn đạo lên núi làm ô uế núi non nên mới có tên là núi Cấm… Từ một ngọn núi hoang vu “cấm kỵ”, giờ núi Cấm đã ra dáng là khu du lịch Lâm Viên.
Đọc Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Tân Trào ❤️️ 15 Bài Hay
Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Núi Cấm Chi Tiết là tài liệu tham khảo hữu ích để các em có thể ôn tập thật hiệu quả.
Núi Cấm Sơn là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng và cũng là lựa chọn của nhiều du khách khi du lịch Hà Giang. Ngọn núi này lại càng đặc biệt thu hút hơn khi mà những ngọn núi khác thì thường ở những nơi hoang sơ, với những ngọn núi trùng điệp thì núi Cấm Sơn lại khác. Giữa lòng thành phố Hà Giang ồn ào nhịp sống, lại có 1 ngọn núi sừng sững hiên ngang, giống như đang bao bọc, che chở cho cuộc sống của những người dân nơi đây vậy.
Núi Cấm Sơn nằm ở trung tâm thành phố Hà Giang, tọa lạc ngay cạnh thị xã Cấm Sơn, chạy dọc theo dốc Mã Tim. Nhìn chung địa hình của ngọn núi này rất hiểm trở với vách đá dựng đứng, bên cạnh là những hang sâu.
Địa hình chủ yếu của núi Cấm được chia ra làm 2 phần riêng biệt. Một là địa hình hang sâu với cách đá dựng đứng hiểm trở. Hai là những vách đá nối tiếp nhau nối dài từ đỉnh núi theo hướng dốc Mã Tim.
Ngược với đỉnh núi trải dài về phía sông Lô là núi đất, sườn núi vách dốc, ẩn hiện phía dưới chân núi là hình ảnh phố xá sầm uất, cuộc sống nhộn nhịp của những người dân. Tạo nên một khung cảnh đối lập giữa không khí yên bình, hoang sơ của núi Cấm và sự nhộn nhịp, xa hoa của cuộc sống đô thị, tuy đối lập nhưng không làm mất vẻ hài hòa.
Chỉ có một con đường duy nhất để di chuyển lên được núi Cấm Sơn tuy nhiên địa hình lại rất hiểm trở. Có lẽ vì lẽ đó mà núi Cấm Sơn vẫn còn giữ được nét hoang sơ, vẻ đẹp huyền bí của nó. Khi xưa vào thời kháng chiến chống Pháp cũng chính địa thế hiểm trở của núi Cấm Sơn đã một phần nào tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta đấu tranh, bảo vệ nơi đây.
Xem Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Yên Tử, Chùa Yên Tử ❤️️15 Bài Văn Hay Nhất
Trong cụm Thất Sơn nổi tiếng (với các tên gọi lần lượt: núi Dài Năm Giếng, núi Cô Tô, Núi Dài, núi Tượng, núi Két, núi Tượng, núi Cấm) thì Núi Cấm là ngọn núi cao nhất và hùng vĩ nhất (độ cao núi Cấm An Giang là 705m so với mực nước biển, chu vi 28.600m).
Núi Cấm từ xưa đến nay được nhiều người mộ đạo coi là ngọn núi thiêng với nhiều tên gọi khác nhau như Thiên Cấm Sơn, Thiên Cẩm Sơn (núi đẹp như gấm lụa). Về nguồn gốc núi Cấm thì có rất nhiều giả thuyết được truyền tai nhau, người dân nơi đây mỗi người có cách lý giải theo suy luận riêng của mình.
Theo lời kể lại rằng ngày xưa núi Cấm An Giang có địa hình vô cùng hiểm trở và là nơi ở của nhiều thú dữ. Vì điều này gây sợ hãi nên xung quanh ít ai lui tới để sinh sống, dần trở thành một vùng sơn lâm bí ẩn. Lúc này có rất nhiều nhà sư lợi dụng sự hoang vu tịch mịch của nơi này đã tìm đến ẩn tu. Bên cạnh đó nhận thấy đây là một căn cứ hiếm có, các phường lục lâm thảo khấu cũng như những đảng cướp vùng biên thùy phức tạp này cũng không ngần ngại lựa chọn núi Cấm làm nơi trú ngụ của mình.
Để không bị ai dòm ngó và phát hiện, họ phao tin đồn rằng trên núi có rất nhiều thần linh, không ai được bén mảng tới, nếu cố ý tìm đến sẽ bị quở phạt, trách tội, về lâm bệnh mà chết. Người dân thời bấy giờ rất sợ và từ trong tư tưởng của mình qua bao thế hệ đã dần gọi nơi này là núi Cấm.
Ngoài ra một truyền thuyết khác nữa đó là vào thời kỳ Nguyễn Ánh bị quân binh Tây Sơn truy nã, ông đã chạy lên núi Cấm ẩn trú ẩn. Để yên bề bí mật, các cận thần của Nguyễn Ánh cũng cho người phao tin rằng trong núi đầy yêu tinh, ác thú nhằm hạn chế sự nhòm ngó của dân lành.
Một nguồn gốc tên gọi khác của núi Cấm là do lời cấm đoán của Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, thầy đã cấm không cho bổn đạo lên núi làm ô uế núi non. Với khí hậu và cảnh quan tươi đẹp ôn hòa, núi Cấm như một phiên bản Đà Lạt của miền Tây. Bởi vậy, Núi Cấm An Giang vào mùa nào cũng đẹp, cũng giữ được vẻ kỳ vĩ của mình.
Đọc Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Côn Đảo, Nhà Tù Côn Đảo ❤️️15 Bài Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Núi Cấm Chọn Lọc từ chúng tôi và chia sẻ đến các bạn đọc sau đây.
Nhiều truyền thuyết xoay quanh tên gọi này. Thời xa xưa, Núi Cấm vốn âm u, đường đi hiểm trở lại có nhiều thú dữ sinh sống nên các quan chức địa phương tiến hành ngăn cấm không cho dân lên núi kiếm sống. Một cách lý giải khác về cái tên “núi Cấm” chính là câu chuyện Nguyễn Ánh trong quá trình bị quân Tây Sơn truy nã đã lên vùng núi non hiểm trở này để lánh nạn. Những cận thần của ông đã tung tin trên núi có thú dữ để tránh bị người dân phát hiện.
Đến nay thì cái tên “núi Cấm” không còn mang nghĩa cấm người dân đi lại nữa mà nơi đây đã trở thành địa điểm tham quan hấp dẫn với những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn, chưa chịu tác động nhiều của con người.
Núi Cấm là nơi có hệ thống rừng nguyên sinh vẫn còn nguyên sơ thuộc khu vực Thất Sơn. Được biết, rừng ở Thất Sơn có khoảng 815 loài thực vật vậy nên khí hậu ở núi Cấm mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình hàng năm chỉ nằm trong khoảng từ 18 đến 24ºC. Do vậy nơi đây trở thành địa điểm tránh nóng tuyệt vời của du khách trong mỗi khi hè về. Đến với Núi Cấm, du khách như được thả mình trong chốn “bồng lai tiên cảnh” bởi khí hậu mát mẻ, mây núi vờn quanh trên đỉnh đầu.
Có thể nói, quang cảnh Núi Cấm vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày cũng tuyệt đẹp và huyền ảo như chốn bồng lai tiên cảnh.
Giới Thiệu Bài 💦Thuyết Minh Về Tam Cốc Bích Động ❤️️12 Bài Văn Hay Nhất
Cùng đón đọc bài văn Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Núi Cấm được chúng tôi chọn lọc sau đây.
Núi Cấm An Giang nổi tiếng không chỉ vì vẻ đẹp hùng vĩ mà còn là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh. Đây là ngọn núi có nhiều tên gọi khác nhau như núi Ông Cấm, núi Pnom ta piel (tiếng Khmer), núi Thiên Cẩm Sơn…. Nhưng phổ biến và được nhiều du khách biết đến là cái tên núi Cấm quen thuộc.
Núi Cấm có địa chỉ nằm ở địa phận xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, Việt Nam. Sở hữu độ cao 705m so với mặt nước biển, núi Cấm đang giữ vị trí đứng đầu trong danh sách các ngọn núi ở đồng bằng sông Cửu Long. Cũng như các ngọn núi khác, Núi Cấm có bầu không khí cực kì mát mẻ và trong xanh. Do đó khi đến đây, bạn sẽ được hòa mình vào thiên nhiên cây cối xanh tươi. Hiện nay, núi Cấm An Giang là địa điểm được nhiều du khách đến tham quan khám phá vào những ngày nghỉ cuối tuần hoặc các dịp nghỉ lễ trong năm.
Núi Cấm An Giang là nơi gắn liền với nhiều truyền thuyết. Nguồn gốc về ngọn núi này vẫn được truyền tai nhau với nhiều câu chuyện kì bí. Phổ biển nhất là câu chuyện về trước đây khu vực này có nhiều hổ tinh sống. Chúng thường gây hại cho người dân. Một hôm, xuất hiện một vị pháp sư. Ngài đã đuổi hết chúng và thu phục được 1 chú hổ trắng lên núi luyện đạo với mình.
Nhưng ma quái lúc bấy giờ không chịu yên nên chúng lập mưu hãm hại pháp sư. Vào giây phút quyết định, bạch hổ đã lao vào cứu pháp sư. Để nhớ ơn cứu mạng của bạch hổ, pháp sư đã đem cốt của hổ chôn ở núi và lập đền thờ. Từ đó vị pháp sư chỉ ở trên núi và giúp cầu an cho người dân.
Câu chuyện thứ 2 về nguồn gốc núi Cấm được kể dựa theo lịch sử. Thời Nguyễn Ánh đem quân vào Nam đã chọn ngọn núi này để dựng võ. Do đó, ngọn núi này trở thành nơi tập luyện của quân đội. Vì vậy, nhà vua đã ra lệnh không cho người dân lên núi. Vì vậy mà người dân gọi nơi đây là núi Cấm.
Hiện nay, trên núi vẫn còn đền thờ vua Gia Long ( Nguyễn Ánh). Dù sự tích về núi Cấm An Giang vẫn chưa được lý giải rõ ràng nhưng nơi đây vẫn thu hút nhiều du khách tham quan. Bởi sự kì bí của những câu chuyện và phong cảnh hùng vĩ của ngọn núi này.
Đọc Thêm Bài 💦 Thuyết Minh Về Động Thiên Đường ❤️️ 12 Bài Văn Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Núi Cấm Đạt Điểm Cao giúp các em có thêm nhiều kiến thức hay về địa danh nổi tiếng nơi đây.
Thị trấn An Châu cách thành phố Long Xuyên khoảng 7km. Từ thị trấn An Châu, theo tỉnh lộ 941 khoảng 45km về phía tây, du khách sẽ tới thị trấn Tri Tôn. Rẽ phải và đi tiếp khoảng 7km nữa, du khách sẽ tới núi Cấm.
Núi Cấm hay còn được gọi là núi Ông Cấm có tên chữ là Thiên Cấm Sơn (nghĩa là một ngọn núi đẹp), nằm trong khu tam giác Tịnh Biên – Nhà Bàng – Tri Tôn, thuộc địa phận xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Đây là ngọn núi cao nhất (cao 716m) và hùng vĩ nhất trong dãy Thất Sơn.
Theo truyền thuyết, trước kia, nơi đây rất âm u, hiểm trở và có nhiều thú dữ ăn thịt, do vậy mà người dân trong vùng không dám lên núi săn bắn, hái lượm. Một truyền thuyết khác cho rằng, Nguyễn Ánh đã từng trú ẩn ở đây và truyền lệnh cấm dân chúng không được đi lại trong khu vực này. Hai lý do này lý giải tại sao ngọn núi này lại có tên là núi Cấm.
Ngày nay, núi Cấm đã trở thành một điểm du lịch sinh thái lý tưởng nhờ có địa thế và các điểm du lịch đẹp.ệt thự nghỉ dưỡng… để dần phát triển thành một khu du lịch bề thế với đầy đủ “ viếng chùa – thưởng ngoạn – giải trí thư giãn và ẩm thực”. Hiện nay, khu du lịch Núi Cấm đã có nhiều danh lam thắng cảnh tiêu biểu như chùa Vạn Linh, chùa Phật Lớn, tượng phật Di Lặc, hồ Thủy Liêm ..
Xem Thêm 💦 Thuyết Minh Về Hang Sơn Đoòng ❤️️12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Núi Cấm Ngắn Hay giúp các em có thể học hỏi được cách triển khai bài văn logic, mạch lạc nhất.
Tọa lạc ở vùng đất thiêng An Giang, núi Cấm là địa danh nổi tiếng được rất nhiều người biết đến. Gắn liền với những câu chuyện ly kỳ cùng vẻ đẹp thu hút nổi bật, nơi đây là một trong những vùng trọng điểm cho những ai đến tham quan và du lịch đất Bảy Núi.
Ngoài tên gọi Núi Cấm, người ta còn biết đến nó với những tên gọi khác như: Thiên Cấm Sơn hay Thiên Cẩm Sơn. Núi Cấm thuộc địa bàn xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Với độ cao gầm 800 mét so với mực nước biển, đây là một trong những ngọn núi cao nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Cùng với núi Cấm, An Giang còn có 6 ngọn núi khác nữa là núi Cô Tô, núi Két, núi Dài, núi Tượng, núi Nước, núi Dài Năm Giếng. Chính vì thế, cái tên Bảy Núi ra đời, dùng để ám chỉ vùng đất thiêng An Giang.
Ngoài địa phận núi Cấm còn giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ hùng vĩ, nơi đây còn có khu du lịch Lâm viên Núi Cấm Châu Đốc và một số đền chùa xung quanh, tạo nên khu vực tham quan đa dạng, mang đến nhiều trải nghiệm độc đáo.
SCR.VN Gợi Ý 💦 Thuyết Minh Về Động Phong Nha Kẻ Bàng ❤️️15 Bài Văn Hay
Thuyết Minh Về Núi Cấm Hà Nam được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ rộng rãi trong các diễn đàn văn học nổi tiếng.
Núi Cấm Hà Nam, nơi có cảnh quan thơ mộng, kỳ vĩ, được ví như chốn bồng lai tiên cảnh, là điểm du lịch hấp dẫn du khách thập phương.
Hình ảnh núi Cấm Hà Nam được biết đến là nơi có 5 động liền kề nhau kéo dài hàng trăm mét. Nơi đây được biết đến với cái tên Ngũ Động Thi Sơn nổi tiếng. Những hang động ăn sâu vào lòng núi tạo nên cảnh quan rất đẹp thu hút du khách đến tham quan, khám phá.
Tương truyền ngày xưa, khi Lý Thường Kiệt đi chinh phạt phương Nam có đi qua thôn Quyển Sơn, thuộc xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng ngày nay. Khi đi ngang qua vùng này thì có một trận gió lớn thổi đến. Ngọn gió làm gãy cột buồm, cuốn cả lá cờ lớn của đoàn quân lên núi. Lý Thường Kiệt cho quân dừng lại, lên bờ tế trời đất. Trận đó, đoàn quân ông chiến thắng vẻ vang. Ngày trở về, ông ghé lại nơi đây thắp hương tạ ơn.
Ngũ động nằm trong lòng núi Cấm Hà Nam là tuyệt tác thiên nhiên khiến ai chiêm ngưỡng cũng phải trầm trồ. Ngũ Động Thi Sơn bao gồm 5 hang động nối liền nhau tạo thành dãy động liền kề dài hơn 100m.
Đến đây, du khách có cơ hội khám phá cấu trúc hang động đa dạng, tuyệt đẹp. Lối vào trong động nằm tít trên cao, hướng mặt ra sông Đáy. Trong khi lối ra của động nằm bên kia vách núi. Trong động, thạch nhũ rất nhiều với đủ các hình thù độc đáo. Đặc biệt, khi gặp ánh nắng hắt vào, thạch nhũ hiện ra với đủ các loại màu sắc óng ánh rất đẹp mắt.
Trên đường mòn leo lên núi Cấm khu du lịch Hà Nam Điện Dương, bạn sẽ bắt gặp một bàn cờ lộ thiên. Kế bên bàn cờ là một vũng vuông lõm sâu, được gọi là huyệt Đế Vương. Theo truyền thuyết, nơi đây chính là điểm tụ tập đánh cờ, thưởng rượu, làm thơ của các tiên nhân vào các đêm trăng sáng.
Du lịch núi Cấm Hà Nam vào dịp đầu xuân, du khách sẽ được tham gia vào các lễ hội đông vui tại đền Trúc Hà Nam. Lễ hội đền Trúc được tổ chức vào dịp nông nhàn từ khoảng mùng 1 tháng Giêng đến ngày 10/02 âm lịch thu hút đông đảo bà con địa phương và du khách tham gia.
Lễ hội với các hoạt động tín ngưỡng, văn hóa đậm đà bản sắc truyền thống, thể hiện lòng biết ơn và tưởng nhớ về vị anh hùng tài ba Lý Thường Kiệt. Bên cạnh các nghi lễ cổ truyền, là các trò chơi dân gian vui nhộn như kéo co, chọi gà, đấu vật,… Trong đó, nổi bật phải kể đến đua tuyền và múa hát Dậm.
Tham Khảo Bài 💦 Thuyết Minh Về Ngũ Hành Sơn ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Núi Cấm Lớp 8 giúp các em có thể quan sát được bố cục bài văn thuyết minh giới thiệu một cách cụ thể nhất.
An Giang là vùng đất nổi tiếng không chỉ bởi cảnh quan thiên nhiên đẹp mà nơi đây còn sở hữu vẻ đẹp tâm linh huyền bí. Điển hình là dãy Thất sơn hùng vỹ, có người “anh cả” là núi Cấm được mệnh danh là nóc nhà của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Núi Cấm hay còn gọi là Thiên Cấm Sơn, có độ cao 700m so với mực nước biển. Tương truyền đây là ngọn núi ẩn chứa nhiều huyền bí nhất trong thế giới tâm linh nằm trong dãy Thất Sơn của An Giang. Với khí hậu quanh năm mát mẻ, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, và quần thể kiến trúc chùa chiền độc đáo trên đỉnh núi, núi Cấm trở thành điểm đến tham quan, vui chơi, chiêm bái hấp dẫn bậc nhất trong các điểm đến du lịch An Giang.
Nhận thấy tiềm năng phát triển nơi đây, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư tỉnh An Giang đã tiến hành khảo sát nhằm xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch đặc thù dành riêng cho núi Cấm. Dự kiến các sản phẩm du lịch sẽ ra mắt trong thời gian tới bao gồm các tour nổi bật như khám phá bí ẩn các hang động trên núi, tham quan các vườn cây ăn trái trên núi theo mùa…
Núi Cấm ngoài tượng Phật Di Lặc đạt kỷ lục tượng Di Lặc lớn nhất Việt Nam còn có những ngôi chùa linh thiêng như chùa Vạn Linh, có kiến trúc cổ kính đậm nét phương Đông; chùa Phật Lớn… khách thập phương thăm viếng, chiêm bái quanh năm. Ngoài ra còn hồ Thuỷ Liêm có diện tích lên đến 60.000m2 suối Thanh Long dài 4.2km là dòng suối dài nhất An Giang. Núi Cấm có lợi thế với các vườn cây ăn trái trĩu quả, nhiều chủng loại như bơ, mãng cầu, cam, quýt, sầu riêng… và hai loại đặc sản không thể bỏ qua là cua và ốc núi.
Đường lên núi Cấm mấy năm gần đây được trải nhựa nên việc đi lại không còn khó khăn. Tuy nhiên, nếu muốn trải nghiệm ngắm cảnh toàn vùng An Giang xanh mướt từ trên cao thì có thể đi bằng cáp treo lên núi. Đối với du khách thích cảm giác, tìm kiếm sự mới mẻ, chinh phục trong những chuyến đi thì việc khám phá các hang động trên núi Cấm sẽ không kém phần hấp dẫn.
Bởi hệ thống các hang động trên núi sẽ không làm du khách thất vọng như hang Bác Vật Lang, hang Bộ Đội, hang Ông Hổ, hang Ông Thẻ, điện Tam Thanh, điện Mười Ba, điện Cửu Phẩm, Vồ Bồ Hong – nơi cao nhất trên núi Cấm, có thể “săn mây” vào dịp sáng sớm.…
Khách du lịch đến núi Cấm, ngoài hành hương, chiêm bái còn được tham quan các vườn cây ăn trái, tìm hiểu đời sống sinh hoạt của người dân trên núi, nghe kể các câu chuyện kỳ bí và trải nghiệm bữa cơm với rau rừng, ốc núi mà chính tay du khách thu hoạch.
Theo quy hoạch và định hướng phát triển du lịch của tỉnh An Giang, khu du lịch Núi Cấm được định hướng thành khu du lịch hành hương, nghỉ dưỡng và khu du lịch sinh thái nhằm mang đến cho du khách những trải nghiệm mới mẻ, hấp dẫn và thú vị. Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư An Giang đang khẩn trương xây dựng và phát triển thêm nhiều sản phẩm du lịch mới, nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của du khách trong và ngoài nước khi đến núi Cấm trong thời gian tới.
Tặng Bạn 🌵 Thẻ Cào Miễn Phí ❤️ Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Thuyết Minh Về Mì Quảng ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Mì Quảng ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Đặc Sắc Giới Thiệu Về Món Ăn Đặc Sản Nổi Tiếng Của Mảnh Đất Xứ Quảng.
I. Mở bài:
Giới thiệu ẩm thực phong phú, đặc trưng của miền Trung đầy nắng và gió: Cơm Hến, bánh tráng cuốn thịt heo, cao lầu,…
Giới thiệu món ăn để lại ấn tượng sâu sắc nhất: Món mỳ Quảng, món ăn trứ danh của vùng đất Quảng Nam.
II. Thân bài:
-Nguồn gốc: Mỳ Quảng vốn là món ăn của vùng đất Quảng Nam, thuộc miền Trung nước ta
-Các loại mỳ Quảng: Mỳ gà, mỳ tôm thịt, mỳ bò, mỳ sứa, mỳ Quảng ếch, mỳ Quảng chay
-Cách làm mỳ Quảng:
Công đoạn làm sợi mỳ:
Yêu cầu thành phẩm: Sợi mỳ vừa trắng vừa mềm mượt lại không bị chua hay nồng mùi bột; khi gắp sợi mỳ soi dưới ánh nắng mặt trời, ta còn có thể thấy sợi mỳ hơi trong, sáng lấp lánh, hấp dẫn
Cách làm: Chuẩn bị ít bột gạo; quấy tan bột; hấp từng lớp bột mỏng cho chín; cắt từng phên bánh bột thành từng sợi, mỗi sợi rộng 1 phân
Công đoạn làm nước dùng:
Chọn thịt theo sở thích rồi sơ chế, đảo ướp trong 15 phút, xào thịt cùng với hành phi cho thơm
Khi thịt chín tới, thêm nước xăm xắp; nêm nếm gia vị cho vừa miệng; thêm rau mùi, hành hoa cho thơm.
-Cách thưởng thức:
Soạn một chút mì vào bát, thêm rau thơm ăn kèm, bỏ thêm ít lạc rang
Chan nước dùng, kèm thịt
-Khi ăn: Cảm nhận được vị thanh đạm của bột gạo, vị tươi mát của các loại rau sống; vị thơm bùi của lạc rang; vị ngọt thơm, đậm đà của thịt. Món ăn giản dị nhưng chứa đựng nhiều tinh tế như tấm lòng của người dân xứ Quảng.
III. Kết bài:
Khẳng định lại giá trị của món mì Quảng trong nền văn hóa ẩm thực miền Trung nói riêng và Việt Nam nói chung
Nêu suy nghĩ, cảm xúc riêng của bản thân đối với món ăn.
Khi viết đoạn văn thuyết minh về mì quảng cần có cách hành văn súc tích, ngắn gọn và giàu ý nghĩa biểu đạt.
Mì Quảng là một món ăn đặc sản đặc trưng của Quảng Nam và Đà Nẵng, Việt Nam. Mì Quảng thường được làm từ bột gạo xay mịn với nước từ hạt dành dành và trứng cho có màu vàng và tráng thành từng lớp bánh mỏng, sau đó thái theo chiều ngang để có những sợi mì rộng khoảng 5 -10mm.
Dưới lớp mì là các loại rau sống, Trên mì là thịt lợn, tôm, thịt gà, thịt ếch, thịt cá lóc (đôi khi có trứng luộc) cùng với nước dùng được hầm từ xương heo. Người ta còn bỏ thêm lạc rang khô và giã dập, hành lá thái nhỏ, rau thơm, ớt đỏ… Thông thường nước dùng được gọi là nước nhưng đây cũng là một loại nước lèo nhưng rất cô đặc và ít nước. Ngoài ra mì còn được dùng kèm với bánh tráng mè, thêm cả đậu phộng rang giòn thơm tạo nên hương vị đặc trưng.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Món Ăn Mà Em Yêu Thích 🍀 17 Mẫu Hay
Văn mẫu thuyết minh về món ăn mì quảng sẽ giúp bạn đọc khám phá cụ thể hơn về món ăn đặc sản nổi tiếng của mảnh đất miền Trung.
Mỗi một vùng miền, mỗi một thành phố hay một dân tộc đều sẽ có những đặc sản riêng. Nó là “tiếng nói chung, sở thích chung” mà ông cha đã để lại cho con cháu. Mang tầm nhìn văn hóa đối với vùng đó, dân tộc đó. Cũng vì vậy mà khi đến từng nơi mọi người thường hay thưởng thức đặc sản ở đó và mua về làm quà cho gia đình cho bạn bè.
Mì Quảng là món ăn bình dân, mộc mạc, vì thế cách chế biến cũng khá đơn giản nhưng đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế. Gạo ngon sau khi đem ngâm, xay thật mịn rồi tráng. Ngày xưa người ta xay bột bằng cối đá, thời nay, với sự hiện đại của khoa học kỹ thuật, cối đá đã thay bằng máy xay có động cơ. Tráng bột lên một màng vải căng trên nồi nước lớn đang sôi. Sau khi tráng một lớp dầu phộng đã khử chín lên lá mì, gấp lại rồi cắt thành từng cọng như cọng phở.
Vậy là xong bước chuẩn bị mì. Phần tiếp theo là chuẩn bị nước dùng và nhân mì. Nước dùng phải được nấu nhiều xương cho ngọt, thêm ri dầu hạt điều để nước dùng có màu tươi. Phần quan trọng thứ hai trong tô mì là “nhân”, gồm có thịt gà, thịt bò, sườn heo non, tôm. Các thứ này được xào cùng với khóm (dứa) cắt nhỏ, tạo thành các loại thịt cùng với vị ngọt hơn chua của khóm. Mì Quảng không sử dụng nước dùng nhiều như hủ tiếu và phở, nên trước khi chế nước dùng vào, sợi mì phải được trụng nước nóng hơi lâu.
Nhân được xếp sao cho đẹp, nhìn phải bắt mắt, vì vậy thịt và tôm phải để trên mặt cho đều rồi mới chế nước dùng, sau cùng rải đậu phộng lên. Già đậu phộng để ăn mì Quảng cũng là một nghệ thuật. Đậu không được đâm nhuyễn, chỉ cà cho vỡ hai ra để người ăn nhai cùng với bánh tráng phát ra âm thanh mới thú vị. Ăn mì Quảng phải kèm bánh tráng gạo miền Trung nướng bằng lửa than mới ngon. Rau ăn với mì Quảng là rau húng cây, húng lùi, xà lách cùng với chuối cây xắt mỏng trộn vào nhau thành một hỗn hợp rau.
Người miền Nam thích ăn giá sống có thể cho vào một ít. Tô mì chẳng giống phở, cũng chẳng giống bún, cái vị đậm đà của nước lèo, lẫn mùi thơm của hành ngò, rồi tiếng húp xì xoạp làm nên nét hấp dẫn của tô mì… Mì ngon là ngon từ lá mì kia, lá mì không được dẻo quá mà cũng không quá tơi, tô mì phải có bố cục đẹp mắt. Khi bạn trộn lên, nếu lá mì bị gãy ra tức là đã mất ngon đi cả chín phần, về nước lèo, nước phải trong nhưng đảm bảo độ béo và ngọt. Nhiều gia vị quá, nước lèo làm cho tô mì loè loẹt và đôi khi át mất hương vị đồng quê.
Gắp một đũa mì cho vào miệng, cắn một miếng ớt thật cay, húp ngụm nước lèo cho phát ra tiếng “soạt”, khi đó mới thấy cái thú, mới thấy cái ngon đầy miệng. Nhìn tô mì đầy đặn, bên những chú tôm đỏ mọng là một lới rau ngò xanh xanh, dăm ba hạt đậu phộng được rải đều, làm cho ta cảm thấy vui mắt và chỉ muốn ăn ngay.
Mì Quảng phải ăn ngay, ăn từ khi còn nóng, để nguội sẽ mất ngon, lá mì sẽ bị tơi ra, rau sống héo đi, cái mùi thơm giòn của rau, đậu sẽ bị tản bớt… Có một điều, ăn mì Quảng mà thiếu bánh tráng thì coi như không đúng cách. Bánh tráng cho ta cái giòn giã và thơm tho, cái béo của dầu mỡ quyện với cái béo của gạo nướng trong bánh tráng càng làm cho người ăn có cảm giác ngon miệng mà không ngán.
Ngày nay, mì Quảng đã được các chủ quán thêm vào một số “biến tấu” trong cách trình bày cũng như thành phần gia vị. Nhưng đây vẫn là một món ăn mang đậm hương vị của Quảng Nam.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Đón đọc bài thuyết minh về mì quảng hay nhất với những thông tin thú vị về món ăn đặc biệt này.
Miền Trung nổi tiếng với nhiều món ăn đặc sản hấp dẫn, đậm đà hương vị, từ cơm Hến của xứ Huế mộng mơ, đến Đà Nẵng thì phải nếm thử Bánh tráng cuốn thịt heo, tạt qua Hội An cổ kính cũng phải nếm thử bát Cao lầu cho biết. Ấy vậy mà cho dù đã đi khá nhiều nơi ăn nhiều món ngon tuyệt, nhưng có lẽ để lại trong tôi nhiều dấu ấn nhất vẫn là Mì Quảng, món ăn trứ danh vùng đất Quảng Nam yêu dấu.
Sống và làm việc tại Đà Nẵng đã lâu, tôi đã quen với những món ăn của miền Trung đầy nắng và gió. Mì Quảng vốn là món ăn của Quảng Nam, và thành phố Đà Nẵng lại chính là một phần của tỉnh Quảng Nam cũ, chính vì thế đến Đà Nẵng mà ăn mỳ Quảng đã trở thành một điều hiển nhiên. Và ngay chính bản thân tôi, cũng đã gắn bó với mỳ Quảng được gần 4 năm trời, có lúc là bữa sáng, có lúc là bữa tối, cứ luân phiên như vậy, chẳng biết họ có bỏ thêm thứ gia vị gì gây nghiện không mà tôi cứ ăn chẳng biết chán.
Mỳ Quảng cũng có nhiều loại, không đơn thuần là một kiểu nhàm chán, nếu ăn chán mỳ gà ta có thể đổi sang các loại mỳ khác như mì tôm thịt, mì bò, mì sứa, mì quảng ếch, người ăn chay thì lại có mỳ Quảng chay, ăn cũng rất ngon, quả là đa dạng phong phú, khiến du khách phải trầm trồ thích thú.
Tôi đã từng thử lần mò học cách làm mỳ Quảng để thỏa lòng ăn uống, thì phát hiện ra món ăn mỹ vị này cũng không khó làm lắm. Có lẽ khó nhất là công đoạn làm sợi mỳ, làm sao cho sợi mỳ vừa trắng, vừa mềm mượt, lại không bị chua hay nồng mùi bột, khi gắp sợi mỳ soi dưới ánh nắng mặt trời ta còn có thể thấy sợi mỳ hơi trong sáng lấp lánh, nhìn càng ngon miệng hơn.
Đầu tiên ta chuẩn bị một ít bột gạo mới, thơm dịu, thêm một chút muối cho sợi mỳ thêm đậm đà, rồi đổ nước vào quấy cho tan, có thể cho thêm một ít bột nghệ để sợi mỳ có màu vàng đẹp mắt. Sau khi bột tan hết, để bột nghỉ khoảng 30 phút, trong thời gian ấy ta nấu sẵn một nồi nước sôi, dùng loại nồi hấp 2 tầng là tốt nhất.
Dùng một cái khuôn đáy phẳng miệng rộng, có thể bỏ lọt tầng trên của nồi hấp, hấp chín từng lớp bột mỏng, rồi đổ chúng sang một cái đĩa phẳng hết lớp này đến lớp khác, mỗi lần như thế lại phết lên trên từng tấm bánh một chút dầu cho khỏi dính. Sau khi bột chín thành bánh hết, thì ta lấy dao cắt bột thành từng sợi, mỗi sợi có độ rộng khoảng 1 phân là đẹp nhất. Xong công đoạn làm sợi mỳ, chúng ta chuyển sang công đoạn làm nước dùng để trộn mỳ, đây là phần rất quan trọng quyết định độ ngon dở của cả tô mỳ.
Tùy sở thích của mỗi người mà chọn loại thịt cho phù hợp, sau khi sơ chế, ta đem ướp với muối, bột ngọt, đường, tiêu, nước mắm, cùng hành củ đập giập, đảo đều rồi ướp trong vòng 15 phút. Dùng chảo nóng, phi hành cho thơm, rồi cho thịt vào đảo cho săn, thêm chút nước màu hoặc đường để tạo màu cho đẹp mắt, sau khi thịt chín tới, thêm nước xăm xắp, rồi nếm lại cho vừa ăn, thêm chút rau mùi và hành hoa để cho thơm.
Lúc ăn, ta soạn mỳ vào bát, thêm một chút rau ăn kèm như các loại xà lách, diếp cá, húng chanh, rau sam, bỏ thêm một ít lạc rang, rồi chan nước dùng, kèm thịt thế là ta có một bát mỳ ngon tuyệt. Mỳ Quảng tuy chế biến vô cùng đơn giản, nhưng hương vị rất tinh tế, ăn vào vừa cảm giác được vị thanh đạm của bột gạo, lại thấy vị tươi mát từ các loại rau sống, nhai từng hạt lạc rang thơm phức, bùi bùi, cắn một miếng thịt được nêm nếm đậm đà, cảm giác như hương vị của trời đất đang quyện vào làm một vậy.
Quả là mỹ vị, trong đơn giản chứa đựng nhiều tinh tế, như tấm lòng của người dân xứ Quảng, giản dị, mà thấm đẫm ân tình miền Trung.
Mỳ Quảng là một trong những dấu ấn, kỷ niệm của tôi gắn bó với mảnh đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Có lẽ dù sau này phải rời xa mảnh đất này, tôi vẫn sẽ nhớ mãi không quên những buổi sáng lang thang, ăn mỳ Quảng ở quán nhỏ trước trường, không quên được những con người hiền hòa, thấm đẫm ân tình mộc mạc, không quên được một Đà Nẵng rực rỡ, một Hội An lung linh, một Quảng Nam ngọt ngào chân quê.
Mời bạn tiếp tục đón đọc ☘ Thuyết Minh Về Đặc Sản Quê Em ☘ 21 Món Ăn Đặc Sản Hay
Bài văn thuyết minh mì quảng ngắn gọn với cách hành văn hàm súc sẽ giúp bạn đọc dễ dàng hoàn thành tốt bài viết của mình.
Người Quảng Nam thường mời bạn phương xa một bát mì lớn để bày tỏ tấm lòng hiếu khách và để giới thiệu về món ăn đặc sản quê hương mình.
Mì Quảng cũng giống biết bao món mì khác, được làm từ gạo và nguyên liệu dân gian dễ kiếm. Nhưng người thưởng thức dễ dàng nhận ra sự khác biệt của nó bởi mùi thơm của rau, mùi béo của thịt, của dầu, hương thơm của đậu phụng, chất giòn béo của bánh tráng, vị cay của ớt. Trong bát mì chứa đựng cả vị nồng nàn của nắng, của gió và của những tấm lòng người dân đất Quảng.
Những hạt gạo ngon, trắng nõn qua nhiều công đoạn chế biến trở thành sợi mì dẻo dai. Nước dùng là thứ cầu kỳ nhất vì quyết định hương vị của món mì. Để tạo màu cho nồi nước dùng người ta xào hạt điều lên thành thứ nước vàng sóng sánh. Đợi khi nước dùng sôi già mới cho gà đã đươc tẩm ướp kỹ vào và đun lên. Bát mì Quảng được xếp đặt với rau sống được thái nhỏ và hoa chuối.Người Quảng Nam cho rằng một món ăn ngon không phải chỉ từ vị giác mà phải mang được tấm lòng của người chế biến và sự cầu kỳ của từng công đoạn. Những nguyên liệu phải được lấy từ chính đất Quảng Nam.
Sau đó cho những sợi mì lên trên cùng với những miếng thịt gà, thịt heo hay tôm béo ngậy, rắc thơm hạt điều, lạc rang rồi chan thứ nước dùng đã được ninh từ xương gà lên. Một bát mì Quảng được trình bày với nhiều hương vị tuỳ theo sở thích của người chế biến và yêu cầu của người thưởng thức.
Người Quảng Nam ăn rất cay, có thể là do thời tiết nắng nóng nên người ta phải ăn cay làm tăng nhiệt độ cơ thể cho phù hợp với thời tiết bên ngoài. Nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến hương vị của món mì mà trái lại càng làm tăng thêm hương vị riêng biệt của tô mì Quảng. Đưa đũa mì lên miệng nếu là người không quen ăn cay bạn sẽ phải xuýt xoa nhưng dần dần càng ăn càng cảm thấy thú vị. Cùng với vị ngọt của nước, vị ngậy của thịt, vị thơm của rau sống là vị cay của ớt..
Ngày nay đi bất kỳ đâu trên đất Quảng cũng có thể thưởng thức món mì này, từ những quán sang trọng đến quán nhỏ liêu xiêu nằm trên các con phố. Món mì Quảng đã trở thành thương hiệu nổi tiếng của đất Quảng Nam nhiều nắng và thừa gió.
Giới thiệu tuyển tập 🌹 Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Tham khảo bài văn mẫu thuyết minh về mì quảng Đà Nẵng với những nét đặc trưng độc đáo riêng có mà món ăn này mang lại.
Mỳ Quảng Đà Nẵng gần như là món ăn mọi người nghĩ đến ngay khi nói về đặc trưng ẩm thực của miền đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Dù món ăn này có thể tìm thấy ở rải rác khắp các tỉnh thành khác của tổ quốc, xong chỉ có ăn Mì Quảng ở Đà Nẵng, người ta mới cảm nhận hết cái đậm đà của món này.
Được xác định ngay từ tên gọi, mì quảng Đà Nẵng là món ăn được bắt nguồn từ Quảng Nam – Đà Nẵng xưa. Còn từ mỳ ý nói đến chất liệu bột để làm nên sợi, nhưng thực chất sợi mỳ lại làm từ bột gạo. Sở dĩ có tên gọi như vậy, theo nhiều tài liệu, mỳ quảng được ra đời từ sự giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Tàu.
Vào thế kỷ 16, dưới thời chúa Nguyễn, đất Hội An trở thành nơi buôn bán ngoại thương đông đúc với thương nhân nước ngoài, và với sự trù phú ở đây, người Tàu đã du nhập vào Quảng Nam- Đà Nẵng xưa khá nhiều, mang theo cả những món ăn đặc sản của họ, trong đó có những món ăn làm từ bột mỳ kha khá giống với món mỳ Quảng bây giờ.
Mì quảng có khá nhiều phiên bản khác nhau như mỳ gà, mỳ cá lóc, mỳ tôm thịt, mỳ bò; hay gần đây còn có sự xuất hiện của mỳ ếch. Mỳ quảng không phải là món khó nấu, nhưng lại cầu kỳ bởi nhiều công đoạn. Một tô mỳ quảng ngon phải đầy đủ màu sắc với các thành phần nguyên liệu tôm, thịt, trứng; ngoài ra còn có nước lèo, rau sống 9 vị, thêm cả đậu phụng rang, bánh tráng mè và nước chấm, đồ gia vị chanh, ớt.
Sợi mỳ ngon phải vàng tươi, mềm mại mà lại dẻo dai. Ăn mỳ quảng Đà Nẵng phải ăn với loại ớt xanh, to mới ngon đúng điệu. Mùi vị đậm đà cộng chút vị ớt the cay đặc trưng tạo nên một món ngon tuyệt hảo. Ngoài ra, mỳ còn được dùng kèm với bánh tráng mè. Có thể chấm bánh tráng với nước lèo hoặc một số người thì thích bẻ vụn bánh trộn chung trong tô mỳ.
Mỳ quảng quê phải ăn kèm với rau sống, mà phải là 9 vị rau sống sau thì mới tạo nên hương vị nồng nàn đặc trưng được, đó là: húng, quế, xà lách tươi, cải non mới nụ, giá trắng có thể được trụng chín hoặc để sống, ngò rí , rau răm với hành hoa thái nhỏ và thêm hoa chuối cắt mỏng.
Một tô mỳ nóng bốc khói dậy mùi, thêm tí chanh, tí ớt, bánh tráng mè và rau sống nữa là bạn đã được thưởng thức một trong những món đặc sản ngon nhất miền Trung rồi.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Bài văn thuyết minh về cách làm mì quảng sẽ giúp bạn đọc có được góc nhìn cụ thể nhất để học hỏi cách thực hiện thành công món ăn này.
Đó có thể là lời mời gọi đẩy đưa của cô bán hàng, nhưng thực sự mì Quảng cũng sẽ không làm cho bạn thất vọng. Cũng như phở, bún hay hủ tiếu, mì Quảng cũng được chế biến từ gạo nhưng lại có sắc thái và hương vị riêng biệt. Bắt đầu từ khâu chọn gạo cho đến nước dùng và các loại gia vị, phụ liệu khác đều rất đặc trưng. Gạo là loại không dẻo, hàm lượng bột cao nhưng phải đảm bảo độ kết dính, được ngâm ít nhất trong vòng 1 tiếng, sau đó cho vào cối xay mịn, tráng thành những lá mì mỏng, xếp chồng lên nhau và thái sợi. Để những sợi mì không dính, phải dùng dầu phụng (hày còn gọi là dầu lạc) phi với củ nén đập dập chín thơm thoa lên bề mặt của bánh.
Nước dùng cho mì Quảng được chế biến từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau tùy theo loại mì mà thực khách muốn dùng. Mì Quảng truyền thống thì nguyên liệu chính là tôm tự nhiên và thịt heo tươi. Tôm sau khi lấy đầu, làm sạch để nguyên con thì được ướp cùng với thịt, một ít tôm được giã nát để cho vào nước tạo vị ngọt tự nhiên. Nguyên liệu sau khi ướp thì được tao bằng dầu phụng cho đủ độ thấm và nấu với nước dùng.
Trong khi nấu nước dùng thì người chế biến chuẩn bị rau và các loại phụ liệu khác. Rau dùng cho mì Quảng là những loại rau có mùi vị đặc biệt. Người Quảng khi làm mì thì dùng rau Trà Quế gồm cải con (tức là cải vừa nhú mầm), rau húng lủi, rau quế xanh (chứ không phải loại quế cọng đỏ dùng cho phở), xà lách, và đặc biệt là phải có hoa chuối thái mỏng. ngoài ra còn có các loại phụ liệu không thể thiếu là hành lá, ớt xanh, bánh tráng gạo mè, chanh, nước mắm ớt được làm từ cá cơm (dùng để nêm thêm cho vừa khẩu vị của từng người) và đậu phụng rang giã nhỏ.
Nếu là mì gà hoặc mì cá lóc, thì nguyên liệu phải được thái vừa phải, tách xương riêng để nấu nước dùng, ướp thịt và nấu như mì truyền thống. Gà phải là loại gà ta, nuôi thả, cá lóc phải là loại cá sống trong môi trường tự nhiên, tất cả làm xong là chế biến ngay để đảm bảo độ tươi, ngọt của nguyên liệu.
Trình bày của mì Quảng cũng có nét riêng biệt. Đầu tiên cho vào tô là rau sống với đủ loại rau như trên, tiếp đến là mì sợi và chang nước dùng, sau đó cho hành và ngò lá xanh, đậu phụng rải đều, bánh tráng và 1 quả ớt xanh kèm với 1 lát chanh mỏng. Không như phở, nước dùng của mì có độ đậm đặc của tôm giã nhuyễn và những nguyên liệu đặc trưng vừa đủ độ béo, đậm và ngọt, vì vậy lượng nước chang cho mì rất ít, không bao giờ ngập lên sợi mì, bố cục đẹp mắt… Để một tô mì Quảng đúng chất và ngon, phải theo quy trình chế biến từ lá mì cho đến khâu chế biến, cũng như các loại gia vị đi kèm, và phải dùng lúc còn nóng…
Mì Quảng là một món ăn đặc trưng và phổ biến bậc nhất ở Quảng Nam. Không một khu phố, làng mạc, chợ búa, ngóc ngách nào ở Quảng Nam là không bán mì Quảng. Chỉ cần ra ngoài chợ mua vài lá mì, ít rau sống, ít tôm thịt, miếng bánh tráng, rang thêm lên mấy hột đậu phộng là có ngay một tô mì Quảng nóng hổi và thơm phức cho cả nhà xì xụp. Mì Quảng là “món ăn bình dân nhất, dễ nấu bậc nhất”, bởi nó được xem là món ăn thích nghi với mọi hoàn cảnh, điều kiện. Thông thường thì mì Quảng là tôm và thịt heo, lúc tìm không ra thịt heo, thì người miền biển bắt cua, bắt cá, người miền núi bắt gà và bắt vịt làm nhưng, ăn vẫn thấy ngon, vẫn ra hương vị mì Quảng.
Mì Quảng là một món ăn của người bình dân, vì vậy không khép mình vào những đòi hỏi khắt khe như những món ăn dành cho giới thượng lưu. Và chính nhờ vậy, mì Quảng có một sức sống mạnh mẽ, nó tồn tại và phổ biến ở mọi thủy thổ…
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Cách Làm Một Món Ăn 🌟 23 Bài Văn Hay Nhất
Bài văn thuyết minh về món mì quảng đặc sắc sẽ là một trong những tài liệu tham khảo không thể bỏ qua khi tìm hiểu về món ăn này.
Nhắc đến miền đất Quảng Nam, người ta không chỉ nhớ đến mảnh đất từng một thời anh hùng trong chiến đấu, mảnh đất của bạt ngàn những rừng keo xanh mướt, nhớ đến một Hội An cổ kính rực rỡ đèn lồng, là chỗ dừng chân lý thú của nhiều du khách trong và nước. Mà người ta còn nhớ lắm Quảng Nam với một nền ẩm thực đặc sắc và đậm đà tình cảm giống hệt những con người nơi đây. Nếu như Hà Nội có phở, có cốm, Huế có cơm hến, bún bò, thì Quảng Nam cũng không thua kém với bánh tráng cuốn thịt heo và mì quảng. Trong đó tôi vẫn ấn tượng nhất với vùng đất Đà Nẵng – Quảng Nam ở món mì Quảng này, sợi gần như phở, nhưng hương vị thì quả thực khác xa.
Có thể nói rằng mì Quảng chính là linh hồn của ẩm thực xứ Quảng, người ta đến với vùng đất này thì khó có thể bỏ qua một món ăn có nhiều thanh sắc vị, lại rất bình dân thân thiện này được. Không ai biết được rằng mì Quảng đã bắt đầu trở thành một món ăn hấp dẫn và bầu bạn với những người con miền Trung từ thuở nào, chỉ có một số tài liệu còn chép lại thì có mì Quảng bắt nguồn từ sự giao thoa văn hóa Việt – Trung.
Trung Quốc vốn là một đất nước có nền ẩm thực phong phú, đặc biệt là với các nguyên liệu từ lúa gạo người ta có thể biến tấu ra hàng trăm món khác nhau, mà các món mì lại càng chiếm ưu thế. Khi người Trung Quốc vào thành phố Hội An bởi các công việc giao thương, họ đã mang sang cả một chút ẩm thực dân tộc, mà người Việt ta thì chẳng bao giờ thôi không sáng tạo. Từ món mì truyền thống của họ ta cũng làm món mì của ta, nhưng hương sắc vị thì lại khác hẳn, ngon và hợp khẩu vị của dân tộc mình và sau nhiều đời thêm bớt, phát triển, ngày nay ta đã có một món ăn thật đặc sắc và đáng để nghiên cứu thưởng thức.
Tôi đã ăn mì Quảng nhiều lần, dường như nó đã từng một thời trở thành bữa ăn sáng nề nếp. Cái hương vị nồng nàn ấy cho dù đến sau này tôi hiếm còn có dịp ăn lại nữa thì vẫn khó mà có thể quên được. Một bát mì Quảng ngon, cũng giống như một bát phở ngon vậy, hai thứ quan trọng là nước lèo và sợi mì thì nhất thiết phải chỉn chu và kỹ lưỡng. Nước lèo phải có màu vàng nâu, óng ánh mỡ, vị hòa quyện của tôm, thịt ba chỉ và trứng cút nấu chung, nếm vào phải thấy hơi mặn, độ ngọt vừa phải, thêm một chút cay cay của ớt đỏ là ổn.
Còn sợi mì bắt buộc phải trắng ngần, mỡ màng và sáng, không bị đứt gãy nhiều hay nát và cũng không dính chặt vào nhau. Bên cạnh hai thứ chính như vậy thì mì Quảng cổ truyền nhất thiết phải có thịt heo và trứng cút làm chủ, thêm vào đó là các gia vị phụ liệu mà tương truyền phải có đủ chín vị thì mới ngon bao gồm: Húng quế, xà lách tươi, rau cải non, giá đỗ, ngò rí, rau răm, hành hoa thái nhỏ, bụp chuối lát mỏng. Ngoài ra người nấu còn bày sẵn ớt, chanh và nước mắm để thực khách có thể thêm vào nếu thích.
Ngày nay mì Quảng đã có nhiều biến thể để phục vụ nhu cầu của khách tứ xứ, mà thứ thay đổi chủ yếu chính là phần thịt trong mì Quảng, người ta có thể đổi thịt heo thành thịt gà, thịt ếch, tôm, cá lóc và thậm chí là cả thịt bò cho thêm phần phong phú. Đồng thời bớt đi một số món rau ăn kèm. Không giống như phở Hà Nội cái sự “cải lương” này của mì Quảng lại dễ khiến người dân nơi đây thích ứng và chào đón nhiệt liệt, hệt như cái cách mà họ đón khách từ tứ xứ tới làm ăn vậy.
Về cách làm thú thực mì Quảng là một món khá dễ chế biến, không quá cầu kỳ như khi nấu phở, nấu bún nhưng để có được một tô mì Quảng ngon lành thì người nấu ắt phải lành nghề và có nhiều kinh nghiệm nêm nếm nước lèo. Muốn nấu ngon thì công đoạn chọn nguyên liệu phải thật kỹ càng, sườn non chọn loại ngon, sụn không quá cứng hoặc quá mềm, chặt nhỏ, đem ướp bằng các gia vị như hành tím băm nhỏ, muối, ớt, tiêu, mì chính, nước mắm ngon, nước màu trong vòng 20 phút.
Tôm chọn loại cỡ vừa sơ chế, rút chỉ đất ở lưng rồi ướp tương tự như sườn non. Sau khi ướp cho lên bếp xào cho thịt thăn lại, rồi chế thêm một ít nước, nấu sôi, sao cho sườn vừa chín tới, nước lèo đậm đà là được. Tôm được xào sau, khi vừa chín thì đổ chung với nồi thịt và trộn đều. Ngoài ra người ta còn luộc trứng cút, bóc vỏ sẵn sau đó khi nồi thịt tôm gần được thì cho vào, để món mì Quảng thêm đậm đà. Với sợi mì Quảng, thường các hàng quán sẽ đặt làm số lượng lớn ở các cơ sở chuyên sản xuất. Sợi mì được làm bằng bột gạo tẻ, khi tráng bánh và cắt sợi người ta còn thêm một ít dầu vừng, dầu lạc để sợi mì được mượt và đỡ dính lại thơm.
Khi thực khách gọi món, người bán sẽ nhanh chóng xếp rau sống vào một cái bát to, sau đó xếp mì quảng lên trên, múc vào một ít thịt, tôm tùy thích, rồi chan nước lèo chồng lên. Lưu ý rằng mì Quảng không phải là các món bún phở thông thường lúc nào cũng phải xăm xắp nước, mà mì Quảng chỉ cần một chút nước lót đáy cho thêm đậm đà. Sau khi chan nước lèo, người bán thêm chút đậu phộng rang giòn cho dậy mùi, một chút bánh phồng tôm hoặc bánh đa, để làm cho món ăn thêm phong phú, dồi dào hơn.
Có thể nói rằng mì Quảng không hẳn gọi là cao lương mĩ vị, cũng không phải món cần người sành ăn thưởng thức, mà nó thực sự là một món ăn dân dã và gần gũi với cộng đồng vô cùng. Ai cũng có thể ăn được nó như thế dần dà nó đã đi vào nếp sống của người dân miền trung như một người bạn đậm đà và thân mến. Trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong ẩm thực Đà Nẵng – Quảng Nam. Nói là mì Quảng nhưng thực tế đến Đà Nẵng ta thậm chí còn ăn được nhiều món mì Quảng ngon tuyệt vời hơn cả quê hương của nó nữa.
SCR.VN tặng bạn 💧 Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Truyền Thống 💧 15 Mẫu Hay
Bài văn giới thiệu về mì quảng chọn lọc sẽ mang đến cho bạn đọc những ý văn hay và góc nhìn sâu sắc về giá trị của món mỳ quảng trong đời sống của người Quảng Nam.
Mì Quảng là món ăn đặc hữu quá phổ thông, quen thuộc không những với người địa phương mà còn cả khách vãng lai đã có lần ghé qua Đà Nẵng.
Thành phần cơ bản của mì Quảng gồm: mì, thịt (heo, bò, gà, vịt…), tôm, cá (lóc, thu, nhám…), trứng (gà, vịt, cút), đậu phộng rang, bánh tráng (đa), ớt, chanh, hành, tỏi… và đặc biệt không thể thiếu các loại rau ăn kèm (xà lách, cải con, giá sống, bắp hoặc thân chuối sứ…).
Tất cả thành phần này thường có đầy đủ trong một quán mì Quảng “bậc trung”, và tùy theo sở thích khách ăn sẽ được phục vụ nhiều hay ít các món trong cùng một tô mì. Hai điểm độc đáo của mì Quảng là chỉ dùng nước mắm nguyên không pha thêm chanh, tỏi, đường… và ớt xanh nguyên trái không thái lát mỏng.
Phân tích về dinh dưỡng học cho thấy tô mì Quảng đúng là cả một khẩu phần ăn hợp lý được thu nhỏ lại. Trong tô mì đầy đủ bốn thành tố của bữa ăn tốt: chất bột (mì, bánh tráng), chất đạm (thịt, cá) chất béo (dầu, mỡ, trứng) chất khoáng và vitamin (các loại rau ăn kèm).
Về tính bắt mắt và khẩu vị, mì Quảng cũng thuộc loại “xuất sắc”. Chúng ta sẽ thưởng thức món mì Quảng bằng cả ngũ quan. Mắt nhìn nhiều màu sắc: trắng của mì, đỏ của ớt, cà chua, xanh tươi của rau. Mũi ngửi được hương thơm của thịt, đậu phộng rang… Lưỡi nếm lắm mùi vị: ngọt, bùi, béo, cay, chua…. Miệng nhai thấy mềm, cứng, dai, dẻo. Tai nghe nhiều âm vui: tiếng bẻ bánh tráng gãy giòn tan, tiếng vỡ sào sạo của đậu phộng.
Ưu điểm lớn nhất của mì Quảng là tính phổ biến và dân dã của nó; hầu như tất cả mọi nơi, các bà nội trợ vùng Quảng Nam, Đà Nẵng đều biết và đã từng nấu được món mì Quảng cho bữa ăn gia đình. Thuận lợi thứ hai của mì Quảng là tính linh hoạt, tùy thực phẩm kèm theo có được có thể chế biến nhiều loại mì khác nhau: mì Quảng gà, mì Quảng bò, mì Quảng sứa… và cả mì Quảng chay dùng cho ngày rằm, đầu tháng.
Quảng Nam được biết đến không chỉ có gió Lào cát trắng, nắng cháy mưa dầm. Bên cạnh rượu Hồng Đào, mì Quảng, món ăn dân dã đã góp phần làm nên một Quảng Nam quyến rũ, mặn mà.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Bất cứ ai khi nhắc về đất Quảng cũng sẽ nhớ ngay đến món mì Quảng trứ danh. Đây là một món ăn mà người dân xứ Quảng dùng để tỏ lòng hiếu khách cũng như giới thiệu đặc sản của quê mình.
Nếu ai đã một lần đến với Quảng Nam cũng không thể quên được nắng cháy mưa dầm, gió Lào cát trắng và nhất là món mì Quảng đậm đà hương vị dân dã. Từ thành phố đến miền quê, đâu đâu trên đất Quảng cũng có thể tìm những quán bán mì nho nhỏ, thơm phức và hấp dẫn đến lạ kỳ.
Không ai biết cái tên mì Quảng có nguồn gốc từ đâu, chỉ biết nó đã hiện diện ở vùng đất Quảng Nam từ lâu lắm rồi. Ban đầu, món ăn bình dị này chỉ dùng để phục vụ cho những người Quảng xa quê, ăn cho đỡ nhớ nhà nhưng theo thời gian, món ăn này ngày càng được yêu thích và phổ biến.
Vì sự mộc mạc và bình dị nên mì quảng có cách chế biến khá đơn giản. Tuy nhiên, để chế biến ra được hương vị thơm ngon đúng điệu của món ăn này, người nấu cần phải có sự khéo léo và tinh tế. Gạo làm sợi mì phải là loại gạo ngon, đem ngâm rồi xay mịn, sau đó mới tráng thành bánh. Ngày xưa công đoạn này tốn rất nhiều công sức vì phải dùng cối đá để xay nhưng bây giờ nhờ có các máy móc hiện đại nên người làm đỡ cực và cũng nhanh hơn.
Bột sẽ được tráng lên một miếng vải căng trên nồi nước sôi lớn rồi phết lên một lớp dầu phộng đã khử chín. Cuối cùng, cắt bánh ra thành những sợi nhỏ như sợi phở là đã có được những cọng mì ngon lành. Riêng phần nước dùng phải được nấu bằng xương cho ngọt nước rồi thêm một ít dầu hạt điều để có màu sắc hấp dẫn hơn.
Quan trọng nhất khi làm mì Quảng chính là phần nhân. Người Quảng thường dùng thịt bò, thịt gà, sườn heo non và tôm để làm nhân cho món ăn. Những nguyên liệu này sẽ được xào cùng với dứa cắt nhỏ, tạo nên hương vị rất đặc trưng. Khi ăn, sợi mì sẽ được trụng trong nước nóng rồi bỏ vào tô, xếp nhân lên trên sao cho thật đẹp mắt rồi chan nước dùng vào. Cuối cùng là rắc thêm một ít đậu phộng để ăn kèm và tăng thêm hương vị cho món ăn.
Đối với món mì Quảng này thì già đậu phộng cũng đòi hỏi rất cao ở sự khéo léo. Đậu không được đâm quá nhuyễn mà phải làm sao để tách ra làm đôi, khi ăn sẽ nhai cùng với bánh tráng, phát ra âm thanh thú vị. Mà riêng bánh tráng ăn kèm với mì cũng phải là loại bánh được làm từ gạo miền Trung và nướng trên than hồng mới ngon đúng điệu. Bên cạnh đó, ăn mì Quảng cũng không thể thiếu được các loại rau trộn với nhau như: húng lủi, húng cây, xà lách và chuối cây xắt nhỏ. Nếu muốn ăn giá sống thì bạn cúng có thể cho vào một ít.
Hương vị của món mì Quảng này rất đặc biệt, vừa đậm đà vị của nước lèo, vừa thơm mùi hành ngò, sợi mì không quá dẻo cũng không quá tơi, thật sự rất hấp dẫn. Món ăn này phải được dùng ngay khi còn nóng mới ngon, không nên để nguội vì rau sống sẽ héo đi, sợi mì bị tơi ra, đậu không còn giòn…
Ngày nay, mặc dù có nhiều biến tấu, nhưng món mì Quảng chính thống của người Quảng Nam vẫn là đặc sản tạo nên nét hấp dẫn riêng của vùng đất nơi đây:
Mời bạn khám phá thêm 💕 Thuyết Minh Về Phở, Món Phở 💕 15 Bài Văn Mẫu Hay
Nếu ai một lần đến với Quảng Nam hẳn không thể nào quên được một món ăn bình dị, dân dã và cũng rất Quảng, đó là món mì đặc trưng của xứ này: mì Quảng.
Từ miền quê đến thành phố, chỗ nào chúng ta cũng có thế tìm đuợc 1 quán mì, có quán vách nứa mái tranh chênh vênh bên sườn núi, có quán nằm lặng lẻ bên những cánh đồng muớt xanh, có quán lại lọt thỏm giữa ồn ào phố thị…Tuy vậy, mì quảng ở đâu cũng giữ đuợc những nét rất đặc trưng; ngon miệng, hấp dẫn mà đằm thắm và gần gũi lạ.
Hãy nghe cô gái ngày xưa mời gọi:
Đó có thể là lời đẩy dưa, đó có thể là lời nói của cô bán hàng. Nhưng thực tình mà nói, Mì Quảng cũng không hề làm cho bạn thất vọng.
Với một nguyên tắc chung là sợi mì bằng bột gạo – gạo trong cho sợi mì màu trắng, gạo đỏ cho sợi mì màu nâu, có khi cho tí nghệ để có loại mì vàng, cùng được chấp nhận hết – và một loại nhưn nhị cô đặc làm bằng bất cứ thực phẩm nào cũng được, ta thấy rằng mì Quảng là một món biến hóa khôn lường, và đó chính là điều làm nổi bật tính cách dân gian của nó, dễ dãi tùy theo sản phẩm mà địa phương hoặc gia đình có được mà tô mì sẽ có một hương vị như thế nào.
So với những thứ khác cùng loại, mì Quảng (loại truyền thống) có vẻ quê mùa. Các cọng mì xắt to hơi thô và cứng, rau sống ghém thường có bắp chuối hoặc chuối cây, món nhưn ít nước rải lên trên thêm đậu phộng giã và bánh tráng nướng bẻ vụn, khi trộn lên trông tô mì lổn nhổn, không có được sự mềm mại của bánh phở trắng tinh, uyển chuyển trong làn nước dùng trong veo, hoặc quyến rũ với miếng giò heo và màu đỏ cay của tô bún bò.
Nhưng phở hay bún bò có cái hấp dẫn của sự tinh tế, còn mì Quảng có cái ngon lành của sự mộc mạc. Sợi mì to, chất nhưn rất đậm và ngậy béo cho ta một cảm giác ngon hơi phàm nhưng mạnh mẽ, kích thích. Người ta không ăn mì Quảng một cách nhỏ nhẻ mà phải “lua ào ào” mới ngon. Nếu ăn trong khung cảnh đơn sơ của thôn quê thì càng hay. Vì nếu xét theo sự hiện diện và tính chất của nó thì có thể kết luận chắc chắn mì Quảng phát nguyên trước hết ở nông thôn mà kẻ thưởng thức là những người làm lụng cực nhọc trên đồng ruộng.
Với câu “hãy nói cho tôi biết anh ăn cái gì và ăn như thế nào, tôi sẽ nói anh là người ra sao” thì món mì Quảng cũng nói lên được bản chất của người Quảng Nam nhiều lắm. Không màu mè kiểu cách, hơi thô thiển nhưng chân thật, rất vững vàng trong nguyên tắc nhưng cũng biết uyển chuyển trong ứng xử, mặc dầu uyển chuyển một cách hơi cứng nhắc. Rõ ràng mì làm sao thì người làm vậy.Tại các làng quê xa của nước ta khách lỡ độ đường thường khó kiếm được quán ăn, nhưng nếu là ở Quảng Nam thì khỏi lo điều ấy, vì làng nào hầu như cũng có ít nhất là một quán mì, và mì Quảng luôn luôn là loại thức ăn rẻ tiền và chắc bụng.
Quán mì là một điểm rất đặc biệt của thôn quê Quảng Nam. Tất cả dân làng đều có dịp ghé ăn ở đó, không có tiền mặt trả ngay thì tới mùa đong lúa trả cũng được. Nhà có khách bất ngờ không nấu nướng kịp thì chạy ra quán mì mua một vài tô đặc biệt về đãi khách. Ngày mùa nhà nào có kêu thợ gặt có thể đặt làm một gánh mì gánh ra đồng đãi thợ “ăn uống nước nửa buổi.” Món mì gắn chặt với đời sống hằng ngày của mọi người, và hai tiếng “ăn mì” rất phổ biến đối với người dân quê Quảng Nam, nói lên một sinh hoạt ăn uống không xa xỉ hoang phí lắm nhưng cũng vượt một tí khỏi mức bình thường.
Mì Quảng – ngay từ bản thân nó đã không có gì gọi là cầu kì, ăn nó cũng vậy, không cần phải kiểu cách lắm. Mì Quảng dể ăn, hợp khẩu vị với nhiều người mà đặc biệt, dù cho nó được bày bán ở những nhà hàng cao cấp giá cả của nó vẫn rất bình dân. Ngày nay, Mì Quảng đã được các chủ quán thêm vào một số ” biến tấu” trong cách trình bày cũng như thành phần gia vị chẳng hạn như vài cọng hành hương, vài cục thịt mỡ nấu nhừ. Những biến tấu ấy không hề làm mất đi cái ngon đặc trưng của nó mà trái lại càng làm tăng thêm tính hấp dẫn mà thôi.
Mỳ Quảng mang theo nét chất phát, giản dị mà đậm đà tình nghĩa của con người nơi mảnh đất miền Trung nắng gió.
Gợi ý cho bạn 💕 Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo, Cách Làm Bánh Xèo 💕 những bài văn hay nhất
Bài văn thuyết minh về mì quảng ngắn hay sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập để chuẩn bị tốt cho bài viết trên lớp.
Trong các món ăn đặc sản của vùng đất miền Trung, Quảng Nam – Đà Nẵng là Mỳ Quảng. Cùng với thời gian và theo đặc trưng các vùng miền, Mỳ Quảng đã được chế biến theo nhiều kiểu khác nhau những vẫn giữ được nét đặc trưng… Thịt gà cùng với hương thơm nồng của rau, vị béo của thịt, hương thơm của đậu phụng và bánh tráng giòn… đã tạo nên sự tinh túy trong món Mỳ Quảng.
Đã từ rất lâu, Mỳ Quảng đã là một món ăn đầy nghệ thuật ẩm thực của vùng đất xứ Quảng. Hiện nay, nhiều nơi đã có quán ăn mì Quảng, Từ xưa, theo đôi chân những người gốc Quảng Nam đi tha hương, Mỳ Quảng đã có mặt tại nhiều nơi như hiện nay và là món ăn không thể thiếu trong những bữa tiệc gặp gỡ của người con đất Quảng xa xứ.
Cũng như hầu hết các món ăn truyền thống của người Việt, Mỳ Quảng cũng được chế biến từ gạo với hương vị riêng đặc biệt. Gạo được xay nhuyễn, tráng lên vải đặt dưới nồi nước đun sôi để hấp chín, sau đó thái thành sợi. Nhân mì được chế biến từ tôm, gà, thịt heo, thịt bò, cá lóc, cua… Nhân dù được chế biến như thế nào thì Mỳ Quảng luôn ăn kèm với bánh tráng nướng, ớt xanh, đậu phộng rang và cùng với rau sống và chanh. Rau ăn kèm với Mỳ Quảng thường rau muống được chẻ nhỏ hay cải con trộn với búp chuối non cắt mỏng, rau thơm, rau quế…
Dọc trên tuyến đường quốc lộ 1A, du khách đến Quảng Nam, Đà Nẵng rất dễ dàng nhìn thấy nhiều quán ăn Mỳ Quảng luôn đông đúc khách: quán Bình Nguyên ở huyện Thăng Bình, quán Kỳ Lý tại thành phố Tam Kỳ, quán my tôm cua Cây Trâm – huyện Núi Thành, quán mì bò Cẩm Hà… Du khách phương xa có dịp ghé chân đển mảnh đất xứ Quảng thì quả thật thiếu sót nếu chưa thưởng thức hương vị dân dã mà đậm đã của món mì đặc sản nơi đây:
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Tham khảo bài văn thuyết minh về món mì quảng lớp 8 với những gợi ý thú vị để giúp các em học sinh thực hiện bài viết của mình.
Mì Quảng là đặc sản nổi danh không chỉ ở vùng đất Quảng Nam mà còn phổ biến ở cả khu vực miền Trung. Đến với Quảng Nam, đâu đâu du khách cũng đều có thể dễ dàng tìm đuợc một quán mì Quảng. Có những quán vách nứa mái tranh bên sườn núi, có quán nằm yên ả bên những cánh đồng xanh mướt, có quán lại lọt thỏm giữa phố thị ồn ào.
Mì Quảng có nhiều loại khác nhau như mì gà, tôm, thịt, trứng, bò, sứa, cá lóc…, mỗi loại mang một hương vị đặc trưng riêng, không lẫn vào đâu. Hòa quyện cùng sợi mì trắng ngà, mềm mại là vị thanh ngọt và béo của nước hầm xương, mà người dân địa phương vẫn quen gọi là nước lèo hay nước nhưng.
Sợi mì Quảng làm từ loại gạo không dẻo, hàm lượng bột cao nhưng phải đảm bảo độ kết dính. Gạo được ngâm ít nhất trong vòng 1 tiếng, sau đó cho vào cối xay mịn, tráng thành những lá mì mỏng, xếp chồng lên nhau và thái sợi. Để những sợi mì không dính, phải dùng dầu phụng (hay còn gọi là dầu lạc) phi thơm với củ nén đập dập thoa lên bề mặt của lá mì.
Nước lèo được chế biến từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau tùy từng loại mì. Với mì Quảng truyền thống thì nguyên liệu chính là tôm và thịt heo tươi. Tôm sau khi bỏ đầu, làm sạch thì được ướp cùng với thịt. Một ít tôm được để riêng, giã nát rồi cho vào nước lèo tạo vị ngọt tự nhiên. Tôm và thịt sau khi ướp sẽ được chao bằng dầu phụng cho đủ độ thấm và nấu với nước lèo.
Nếu là mì gà thì để có một nồi nước lèo ngon, phải lọc thịt nạc của gà để ướp rồi đem xào. Xương và những phần còn lại của gà cho vào nồi nước ninh kỹ. Để tạo váng màu đỏ sóng sánh cho nước lèo, người ta xào hạt điều với mỡ rồi cho vào nồi nước, chờ khi nước sôi già mới đổ thịt gà đã xào vào và nêm gia vị vừa ăn.
Bên cạnh đó, việc chuẩn bị rau sống và các loại phụ liệu khác cũng là một công đoạn không thể thiếu. Rau dùng cho mì Quảng bao gồm 9 loại là cải non, xà lách tươi, húng lủi, quế xanh, giá trắng, rau răm, ngò rí, hành hoa và hoa chuối thái mỏng. Đặc biệt, đậu phộng rang và bánh tráng mè nướng giòn sẽ làm tăng thêm hương vị độc đáo cho mì Quảng. Bên cạnh bát mì còn có một chén nước mắm chanh, tỏi, ớt để nêm cho vừa ăn.
Đón đọc tuyển tập ☔ Thuyết Minh Về Bún Bò Huế, Món Bún Chả Cá ☔ 15 Bài Hay Nhất
Bài văn thuyết minh về mì quảng lớp 8 luyện viết không chỉ giúp các em học sinh nâng cao kỹ năng diễn đạt mà còn khám phá thêm những thông tin thú vị.
Cũng như phở Hà Nội, hủ tiếu Sài Gòn, bún bò Huế, mì Quảng đã bước vào thực đơn điểm tâm và các món ăn của người miền Nam. Ban đầu, mì Quảng chi để phục vụ cho những người Quảng Nam xa quê, ăn để đỡ nhớ nhà. Nhưng rồi món mì Quảng ngon thu hút rất nhiều người.
Cái tên mì Quảng không biết có phải xuất xứ từ Quảng Đông, Quảng Tây, Quảng Châu của Trung Quốc theo người dân di cư sang đây nhưng nó đã hiện diện ở vùng đất này từ lâu lắm rồi. Cũng như phở Hà Nội hay bánh canh Trảng Bàng, dù xuất xứ ở đâu thì đến giờ cũng chỉ đọng lại một nơi và làm nên cái hồn của nơi đó.
Nhìn qua thì món mỳ Quảng cũng giống như nhiều món ăn khác. Sợi mỳ cũng được làm từ bột gạo, trong tô có cả rau, thịt, tôm, đậu phụng và các loại gia vị đi kèm quen thuộc. Ấy thế nhưng nếu ai đã nếm thử qua hẳn sẽ nhanh chóng nhận ra sự khác biệt. Vị béo ngậy từ thịt và dầu, đậm đà từ tôm, bùi bùi của đậu phộng lại hòa quyện với các loại gia vị như nước mắm tỏi ớt, dư vị cay cay đặc trưng, ăn cùng với các loại rau sống, rau thơm, đã tạo nên hương vị rất thú vị và lôi cuốn.
Món ăn được bày ra trước mắt thực khách tưởng chừng đơn giản nhưng lại cầu kỳ và công phu đến lạ. Trong mỗi tô mì Quảng còn chất chứa cả nắng, cả gió và cả tấm lòng của người dân xứ Quảng. Những ngày làm mía, gặt ruộng, đến đám giỗ, cưới hỏi, chiêu đãi bạn bè…mì Quảng hiện diện trong bữa ăn chính như một thói quen không đổi của người Quảng Nam. Vừa ngon, vừa rẻ, vừa no lâu. Mì Quảng đã làm nên một nét hấp dẫn rất riêng của xứ Quảng Nam.
Mỳ Quảng được xem là món ăn đặc trưng của Quảng Nam – Đà Nẵng và là món đặc sản mà bất cứ du khách nào cũng muốn được thưởng thức khi đặt chân đến vùng đất này.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Thuyết Minh Về Món Thịt Kho Tàu 🌟21 Bài Thịt Kho Hột Vịt
Để hoàn thành tốt bài văn thuyết minh về mì quảng lớp 9, các em học sinh cần nắm được những thông tin cơ bản về món ăn và có cách hành văn khéo léo, hấp dẫn người đọc.
Ẩm thực miền Trung nổi tiếng khắp cả nước bởi nhiều món ăn ngon có thể kể đến như cơm gà Tam Kỳ, bún bò Huế, hến xúc bánh đa… Trong đó, mì Quảng là món ăn được xem như linh hồn của ẩm thực xứ Quảng.
Có thể nói, mì Quảng chính là món ăn do người dân Quảng Nam sáng tạo nên và sau này khi những người con nơi đây đi các vùng miền khác để lập nghiệp thì đâu đó trong bữa cơm thường ngày hay trong các dịp lễ họ đều thích thưởng thức mì Quảng. Thế nên, nó không chỉ đơn thuần là món ăn mà trong nó còn chứa đựng nhiều nét đẹp văn hóa của người dân Quảng Nam.
Dù tên gọi là mì nhưng sợi bánh lại làm từ bột gạo với quy trình làm từ công đoạn ngâm, xay mịn, tráng thành lá mì, chồng lên nhau đến thái sợi. Thường thì người ta hay dùng dầu phụng để những sợi mì không bị dính lại nhau. Thế nhưng, sau này dầu phụng lại trở thành điểm nhấn để mọi người có thể phân biệt được đâu là một tô mì Quảng chuẩn vị. Mùi thơm đặc trưng của loại dầu này khác hẳn với dầu sản xuất công nghiệp. Thế nên, nhà văn Vũ Đức Sao Biển cũng đã từng chia sẻ trên báo Quảng Nam rằng, “Phi phụng du bất thành Quảng mì”, tức không có dầu phụng thì không ra hồn vía của món mì Quảng.
Nếu như trước đây, nồi nước nhưn (hay còn gọi là nước lèo) nguyên bản chỉ dùng thịt ba chỉ heo và tôm để nấu thì ngày nay, để đáp ứng nhu cầu thưởng thức đa dạng của thực khách thì nhiều nơi còn dùng thịt bò, gà, vịt, cá, ếch để nấu món ăn. Dù là biến tấu, thế nhưng, cách nấu của người Quảng Nam nói chung vẫn là hạn chế sử dụng đường.
Nhắc về rau ăn kèm thì cũng lắm công phu. Người Quảng Nam khi làm mì Quảng hay dùng rau từ làng rau Trà Quế gồm có cải con, húng lủi, quế xanh, xà lách và không thể thiếu là hoa chuối thái mỏng. Dọn kèm đĩa rau là phần gia vị gồm hành lá, ớt xanh, nước mắm, đậu phộng rang giã nhuyễn và bánh tráng gạo mè. Khác với cách thưởng thức hủ tiếu hay phở với nước lèo được chan gần đầy tô thì ở mì Quảng nước lèo được nấu sắc lại và chan gần xâm xấp sợi mì. Chính sự đặc biệt này mà nơi nào bán mì Quảng với nước lèo chan đầy tô thì ắt hẳn không còn là chuẩn vị.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Không hiểu vì sao miền Trung có “ngũ Quảng” nhưng món mì Quảng lại chỉ định danh riêng cho xứ Quảng Nam. Thức quà dân dã của miền đất khó ấy giờ đã “vinh dự” được xếp vào 12 món ăn Việt Nam được công nhận giá trị ẩm thực châu Á.
Khi những cánh đồng vàng chỉ còn trơ gốc rạ, cây rơm “ngạo nghễ” đón nắng, gió góc vườn và lúa vàng khô đã yên vị trong những chum, mái trong nhà là lúc người làng mở hội vui bằng những tô mì gạo mới. Không hiểu “tô mì gạo mới” ấy có gì mà “ám ảnh” những người Quảng tha hương đến vậy? Mẹ tôi kể, ngày ấy, cứ đến mùa, những người tản cư lại theo xe lam ba bánh hay xe Daihatsu về quê mua gạo mới làm mì, bởi họ quan niệm những thứ gạo ở thành phố không thể cho ra một tô mì “đúng chất Quảng Nam”. Sau giải phóng, trở về quê cũ dựng nhà, ba tôi, đã xây một lò tráng mì… để mưu sinh.
Năm tháng ấy, đến mùa gặt hay mùng 5.5 âm lịch mỗi năm, nhà tôi đã phải chong đèn suốt đêm mới tráng xong những chồng mì cho người quê gửi. Ba tôi kể, xưa, người làng chọn lúa lốc, lúa trì, lúa cang cũ ngâm gạo và xay bột để cho một tô mì thơm ngon. Còn bây giờ, người ta đã thôi không làm ra những lá mì màu củ dền nhạt, phơn phớt hồng nâu của giống lúa cũ và thay bằng những lá mì khác, nhưng phải là loại gạo nở mềm và cũng không quá dẻo cơm.
Xưa, tráng bằng nồi đất, loại lớn có rút nhiệt tốt, giờ dùng nồi đồng 10 hay chảo gang. Bột ướt là sản phẩm của cối xay bột hai thớt, thấp thoáng bóng dáng Yoni- Linga (sinh thực khí) của nền văn minh Phù Nam. Khuôn tráng thường làm bằng vải láng, khổ rộng hơn 40cm, căng trên miệng nồi với phần thân nồi đặt lút sâu giữa lò xây bằng gạch và đất sét chung quanh để giữ nhiệt. Khi nước sôi, người tráng khuấy bột đều bằng chính chiếc gáo lường làm bằng nửa sọ dừa, đít mài nhẵn bóng, có dùi lỗ tra cán tre thật khít, múc bột đổ lên khuôn, láng đều và đậy nắp.
Lá mì được tráng hai lần. Bánh chín, dỡ nắp, dùng thanh tre vót dẹp bản rộng xuyên qua giữa lớp vải khuôn với lớp bánh và vớt bánh bày trên vỉ, chồng lên liên tục cho đến khi hết thau bột. Chất lượng tô mì phụ thuộc rất nhiều thứ nhưng quan trọng hơn cả vẫn là công đoạn tráng bánh. Không có một công thức chung cho việc gia, giảm lượng nước pha bột để tráng mà thuộc về tay nghề “bí truyền” của mỗi gia đình.
Những lá mì được xếp chồng lên nhau, để nguội, thoa dầu (tốt nhất là dầu phụng khử chín) và gấp lại. Khi ấy, những đôi bàn tay cầm nắm cả đầu và cán dao lướt đi trên lá mì đã gấp. Người có óc tưởng tượng sẽ hình dung giống đôi bàn tay “ma thuật” đi qua mặt gỗ và… rổ mì sợi trắng đục màu gạo ấy… đã sẵn sàng cho một bữa tiệc quê vui vẻ.
Mì Quảng ngon là nhờ nồi nước nhưn nóng hổi, vàng ươm với nhiều cách chế biến từ tôm, heo, gà, cá…, và không thể thiếu vị mùi cải con, húng, quế, tía tô, bắp chuối sứ xắt nhỏ, vài lát chanh tươi, muỗng dầu béo ngậy, thêm một chút đậu phụng rang vàng giã dập, kẹp miếng bánh tráng bóp nhỏ, rắc cùng hành ngò… lên tô mì. Có vậy thôi, nhưng không hiểu sao, mỗi khi cắn miếng ớt xanh cay tê đầu lưỡi… thì dẫu có ăn đủ của ngon vật lạ, tận trong thẳm sâu tiềm thức người Quảng tha hương hay hoài cổ vẫn không thể quên món mì Quảng.
Những người nhà quê nói món mì Quảng có đủ… âm dương, ngũ hành, bát quái, càn khôn… Ai cũng đều có thể thưởng thức, tìm kiếm cái no bụng, ngon lành hoặc… giá trị văn hóa, khoa học trong một tô mì. Xét về mặt dinh dưỡng, món ăn với thực phẩm tươi non, cân đối dinh dưỡng, nhiều vitamin và khoáng chất của nhiều loại rau hợp vệ sinh, thân thiện với môi trường, không gây ra các bệnh do ăn uống,… là một công thức lý tưởng.
Dưới cái nhìn phương Đông, mì Quảng có sự hòa hợp khí chất âm dương. Không nóng quá, cũng không làm lạnh tỳ vị. Hầu hết rau ăn (bắp chuối, chuối cây, rau muống, rau thơm (húng, é, nén, hành hương, rau đắng, diếp cá…), gia vị (nghệ, hạt điều) đều có dược tính kích thích tiêu hóa, phòng nhiều bệnh đường ruột…. Và đó là món ăn có những âm thanh, màu sắc riêng.
Xét cho cùng, nghệ thuật Quảng Nam mà đặc sản là mì Quảng phản ánh được truyền thống văn hóa lâu đời của người gieo trồng trên đất khó. Mỗi thứ dụng cụ, gia vị… cho thấy sự tích lũy kinh nghiệm, sự sáng tạo để thích nghi với mùa vụ và tính khí khắc nghiệt của trời đất. Món ăn của miền đất khó ấy đã bước vào căn nhà ẩm thực danh giá châu Á, có thể là niềm vui của không ít nhà kinh doanh lữ hành hay nhà hàng, nhưng với người Quảng, cũng là chuyện bình thường. Bởi, món mì ấy đã như “một thứ tín ngưỡng”, “một thứ tôn giáo” của riêng người Quảng Nam.
Có thể, trong suốt cuộc đời mình, chưa được ăn phở, miến hay bún bò Huế…, nhưng chắc chắn không một người Quảng nào lại chưa được ăn một tô mì Quảng.
Vậy nên:
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Cơm Lam, Cơm Tấm ☀️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Tiếng Anh
Mi quang may be available at most restaurants in Vietnam, but it actually originates from Da Nang. Easily distinguished by its yellow-coloured rice noodles, this dish is a hearty mix of bone broth seasoned with fish sauce, black pepper, shallot, and garlic, as well as meaty ingredients such as river shrimp, boiled quails eggs, and roast pork.
As with most Vietnamese dishes, mi quang also comes with a variety of herbs, including basil, peanuts, coriander, lettuce, sliced banana flowers, and sesame rice crackers. There is no correct way to cook Mi Quang – it really depends on your tastes and preferences. To most of Danangians, the best Mi Quang is home-made by their mothers or grandmothers, attached with love and memories.
Mi Quang brings out the feeling of genuineness and simplicity just like the people in Central Vietnam, one that is hard to come across in the modern dishes.
Tiếng Việt
Mì quảng có thể xuất hiện ở hầu hết các quán ăn tại Việt Nam, nhưng món ăn này thực tế xuất xứ từ Đà Nẵng. Được phân biệt rõ ràng nhờ sợi mỳ gạo màu vàng, món ăn này là sự kết hợp xiêu lòng từ nước dùng từ xương được nêm nếm bởi nước mắm, tiêu đen, củ hẹ, và tỏi, cùng với các nguyên liệu từ thịt khác như tôm sông, trứng cút luộc, và thịt lợn nướng.
Như hầu hết các món ăn Việt Nam, Mì Quảng cũng ăn cùng với nhiều loại rau sống khác nhau, bao gồm húng quế, lạc, rau mùi, xà lách, hoa chuối thái mỏng, và bánh đa mè. Không có công thức cố định nào cho Mì Quảng – nó tùy thuộc vào khẩu vị và sở thích của từng người. Với hầu hết dân Đà Nẵng, Mì Quảng ngon nhất là được làm tại nhà bởi mẹ hoặc bà của họ, cùng với tình yêu và những kỷ niệm.
Mì Quảng đã đem đến cảm giác chân thực và giản dị như con người xứ miền Trung Việt Nam, điều mà khó có thể thấy ở những món ăn hiện đại.
Ngoài ra, tại chúng tôi còn có 🌺 Thuyết Minh Về Bánh Chưng 🌺 20 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Bác Hồ ❤️️15 Bài Thuyết Minh Hồ Chí Minh Hay
Thuyết Minh Về Bác Hồ Hay ❤️️ 15 Bài Thuyết Minh Hồ Chí Minh ✅Tham Khảo Tuyển Tập Văn Mẫu Thuyết Minh Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Mẫu dàn ý thuyết minh về Bác chi tiết sau đây sẽ giúp các em học sinh phân tích những ý chính cơ bản để triển khai bài văn của của mình.
I. Mở bài: Giới thiệu chung về Hồ Chủ tịch:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng vô sản kiệt xuất, chiến sĩ hòa bình, danh nhân văn hóa thế giới.
Với dân tộc Việt Nam: Người là Cha, là Bác, là Anh…
Đất nước ta tự hào về Bác.
II. Thân bài:
* Tinh thần yêu nước nồng nàn của Hồ Chủ tịch:
Vào đầu thế kỉ XX, thấm thía nỗi nhục nô lệ, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước.
Sau ba chục năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, năm 1941, Bác về Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Bác lãnh đạo toàn dân vùng lên làm Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có chủ quyền, độc lập, tự do. Bác Hồ là vị chủ tịch nước đầu tiên.
Bác sáng suốt và kiên trì lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ xâm lược.
Lí tưởng và mục đích phấn đấu cao cả của Bác là vì dân, vì nước.
Lòng nhân ái của Bác bao trùm khắp non sông, mọi tầng lớp nhân dân.
Phẩm chất thanh cao, giản dị, đức khiêm tốn của Bác có sức thuyết phục rất lớn.
* Sự tôn vinh của dân tộc và nhân loại đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng cứu nước mà tên tuổi đời đời sống mãi với lịch sử và trong lòng nhân dân.
Bác là chiến sĩ hòa bình xuất sắc của thế giới, danh nhân văn hóa của nhân loại.
III. Kết bài:
Chúng ta tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết tinh tinh hoa truyền thống bốn ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một con người chân chính của mọi thời đại.
Trong hành trình gian nan và vô tận, con người luôn tìm kiếm những hình mẫu có thật trong cuộc sống để tôn vinh và noi theo với mong muốn trở nên hoàn thiện hơn. Một trong những hình mẫu lý tưởng ấy là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bác là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là người anh hùng giải phóng dân tộc, và đồng thời là một danh nhân văn hóa thế giới.
Nếu Lê-nin là niềm tự hào của nước Nga, Phi-đen Ca-xtơ-rô là vì sao của nhân dân Cuba, thì Bác Hồ chính là người anh hùng vĩ đại trong lòng người dân Việt Nam. Bác đã soi sáng con đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Làm thế nào người con bé nhỏ của xứ Nghệ có thể thực hiện được điều lớn lao ấy?
Trước Bác cũng có rất nhiều người đi khắp thế giới, nhưng là đi thám hiểm, đi buôn, đi truyền đạo. Người đi khắp thế giới để cứu dân tộc mình thì chỉ có một. Đó chính là Bác Hồ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Đi đến đâu, Bác cũng để lại biểu tượng đẹp về lòng yêu nước. Bác lên tàu tìm đường cứu nước khi còn trẻ, khi trở về thì mái tóc Bác đã điểm bạc. Bác không tiếc cống hiến trọn tuổi thanh xuân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác đã mang lại cuộc sống ấm no mơ ước cho nhân dân Việt Nam. Tất cả những gì Bác đã làm, từ bé nhỏ đến lớn lao, đều xuất phát từ lòng yêu nước chân thành và mãnh liệt. Chính lòng yêu nước ấy đã tạo nên Bác Hồ, người anh hùng dân tộc của chúng ta ngày hôm nay.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác, quân dân ta đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược với một niềm tin tưởng tuyệt đối về ngày toàn thắng. Thế nhưng, Bác không chỉ cứng rắn trong hoạt động quân sự mà còn rất lãng mạn trong lĩnh vực văn học. Thơ của Bác không thật nhiều nhưng rất cô đọng và súc tích. Từng câu từng chữ đều thể hiện sự kiên định, niềm lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dù lúc ấy Bác đang trong cảnh ngục tù hay đang sống giữa muôn vàn gian khổ.
Một vị danh nhân đã từng nói: “Nói đến văn học Việt Nam thì trước hết cần hiểu về Bác, hiểu con người văn hóa Hồ Chí Minh”. Quả thật như thế, Bác đã hòa trộn tinh hoa văn hóa nhân loại với gốc rễ văn hóa Việt Nam, tạo nên một đặc trưng văn hóa rất riêng ở Bác. Tất cả những điều trên đã thuyết phục UNESCO trao tặng Bác danh hiệu “Danh nhân văn hóa thế giới”.
Không chỉ có tài năng, Bác còn là một tấm gương đạo đức sáng ngời. Biết bao người chiến sĩ cộng sản từng sống và làm việc với Bác thường không khỏi xúc động khi hồi tưởng lại những ký ức ấy. Bác luôn để lại ấn tượng đẹp trong tim mỗi người mà Bác gặp vì vẻ giản dị, mộc mạc vô cùng thuần khiết. Trong từng lời nói của Bác đều ẩn chứa những luân lý đạo đức nhưng không khô khan mà nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ dàng đi vào lòng người.
Cách sống của Bác cũng bình dị, mộc mạc như mục đích sống của Bác là hết lòng vì nước vì dân. Bác không có dinh thự như bao vua chúa khác mà ở trong ngôi nhà sàn đơn sơ để có thể hòa mình với thiên nhiên. Tư trang của Bác cũng ít ỏi, chỉ là hai bộ quần áo Bác thường mặc với vài kỷ vật sau những chuyến bôn ba nước ngoài. Là một vị lãnh tụ vĩ đại nhưng Bác lại bình dị và mộc mạc thế đấy. Mỗi mẩu chuyện về Bác là một bài học đạo đức nhẹ nhàng, thấm thía.
Ngày nay, thế hệ trẻ luôn được khuyến khích làm việc và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là kim chỉ nam vô cùng cần thiết trong cuộc sống của học sinh: “Học tập tốt, lao động tốt”, “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” là những lời dạy mà chúng em không thể nào quên được. Càng được học, càng tìm hiểu về Bác Hồ, em thấy càng tự hào vì nước Việt Nam của chúng ta nhỏ bé nhưng lại sinh ra những danh nhân không hề bé nhỏ.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, là người con anh hùng của đất nước Việt Nam, đồng thời là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bác là ánh sáng của lý tưởng và niềm tin trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Bác đã đi xa nhưng sao dường như vẫn đang dõi theo từng bước tiến của dân tộc. Ai hiến dâng đời mình cho nhân dân, cho loài người thì người ấy trở thành bất tử. Và Bác Hồ của chúng ta sẽ sống mãi cùng non sông đất nước.
Văn mẫu thuyết minh về Bác Hồ ngắn gọn sau đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Dân tộc Việt Nam, một dân tộc sinh ra với rất nhiều người con yêu nước. Trong số đó, Người mà nhân dân cả nước yêu quý, kính trọng và biết ơn chính là Bác Hồ- vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Bác Hồ vị lãnh tụ vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân tộc. Người đã ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 người đã xuống tàu buôn của Pháp với hai bàn tay trắng làm rất nhiều việc nặng nhọc. Nhưng cũng bởi tình yêu nước, ý chí và lòng quyết tâm Bác đã không từ bỏ mà đến với nước Pháp xa xôi đã tìm đến với những con người cùng khổ tham gia Đảng cộng sản Pháp.
Với người Việt Nam không ai có thể quên được hình ảnh Bác sưởi ấm dưới mùa đông giá rét bằng một viên gạch, Bác đã phải làm nghề quét tuyết vô cùng nặng nhọc. Người đã đến với nước Nga được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác Lê-nin. Và rồi Người đưa ánh sáng Mác Lênin đến với nước mình vào ngày 3-2-1930 thành lập Đảng cộng sản Đông Dương ở Hương Cảng Trung Quốc.
Sau ba mươi năm bôn ba hải ngoại ở nước ngoài Bác đã trở về đặt chân lên quê hương, đất nước tại biên giới Cao Bằng bằng sự bồi hồi xúc động bởi đã lâu lắm rồi Bác mới cảm nhận được hương vị quê nhà, tình yêu sự tin tưởng của đồng bào dành cho Bác, dành cho Đảng. Bác đã trực tiếp lãnh đạo cách mạng toàn dân trong cuộc kháng chiến. Năm 1945 bằng tất cả sự nỗ lực, hi sinh của cả dân tộc thì nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Người đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam vào ngày 2-9 và là chủ tịch nước đầu tiên.
Lúc đó Người phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng vẫn phải lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm tiêu biểu là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu. Với bao công lao mà Bác đã dành cho đất nước Bác xứng đáng là vị lãnh tụ vĩ đại ghi tên mình vào trang sử vàng của dân tộc.
Không những thế Bác còn là một danh nhân văn hóa được nhân dân cả thế giới kính trọng bởi tài năng hơn người của mình. Trên con đường cứu nước của mình của mình Bác đã đến rất nhiều nơi, đã học và nói được thành thạo nhiều thứ tiếng. Trên đất nước Pháp, Bác đã viết báo “Những người khốn khổ” để tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
Năm 1942 Bác sang Trung Quốc và bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt bị giam cầm hơn một năm trời. Trong thời gian bị giam cầm Người đã cho ra đời tập Nhật kí trong tù với 133 bài thơ bằng chữ Hán với nhiều đề tài khác nhau. Tác phẩm ấy đã đánh dấu khí phách kiên cường của người chiến sĩ cách mạng, một hồn thơ dạt dào cảm xúc với tình yêu thiên nhiên, yêu nước, tinh thần lạc quan. Chính tập Nhật kí trong tù là một thành công để Bác trở thành danh nhân văn hóa của Việt Nam và của thế giới.
Và khi trở về nước dù có bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để sáng tác thơ và cho ra đời các bài thơ hay như: Cảnh khuya, Rằm tháng giêng và Tức cảnh Pác Bó…
Khi đất nước không còn chiến tranh cuộc sống ổn định, đất nước đang trên thời kì phát triển và hội nhập trên thế giới nhưng tư tưởng của Bác vẫn còn mãi vẫn soi sáng cách mạng Việt Nam. Và tuyên truyền cho mọi người phải học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Có thể nói rằng Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Là học sinh chúng ta phải cố gắng học tập thật tốt và làm theo năm điều Bác Hồ dạy để trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Trong suốt cuộc đời, Bác Hồ luôn dành một phần trái tim mình cho thiếu nhi Việt Nam và các cháu nhỏ trên toàn thế giới. Tình thương yêu bao la của Bác Hồ đối với thiếu niên, nhi đồng được thể hiện sâu sắc, phong phú, sinh động ở cả lời nói và việc làm, nhất là ở những lá thư Bác gửi cho các cháu vào dịp Tết Trung thu và ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6 hằng năm.
Bác Hồ đã “đi xa” 46 năm, song đọc lại những lá thư ấy, chúng ta bồi hồi xúc động, hiểu hơn những tình cảm sâu nặng, thiết tha của Bác đối với các cháu nhỏ. Trong thư gửi các cháu thiếu nhi nhân Tết Trung thu năm 1945, Bác viết: “Các cháu vui cười hớn hở, Bác Hồ cũng vui cười hớn hở với các cháu. Đố các cháu biết vì sao? Một là vì Bác rất yêu mến các cháu; hai là vì Trung thu năm ngoái nước ta còn bị áp bức, các cháu còn là một bầy nô lệ trẻ con, mà Trung thu năm nay, nước ta đã tự do, các cháu đã trở thành những tiểu chủ nhân của một nước độc lập”.
Trong lá thư lịch sử này, Bác đã khéo léo gắn kết tình thương yêu con trẻ với niềm tự hào lớn lao khi đất nước giành lại được độc lập, tự do. Thư gửi các cháu thiếu nhi nhân Trung thu năm 1951, Bác đã tâm sự:
“Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng
Gửi cho các cháu, tỏ lòng nhớ nhung”
Ở những dòng thư dịu dàng, đằm thắm này, Bác Hồ không chỉ vui mừng, tự hào về lớp lớp măng non Việt Nam sống trong chế độ mới luôn xinh xắn, ngoan ngoãn, giỏi giang, mà Bác còn khẳng định, Bác là người yêu quý các cháu nhi đồng nhiều nhất. Chính tình thương yêu bao la đó đã nâng tầm sự “vĩ đại” của Bác, làm cho mỗi cháu nhỏ, mỗi chúng ta ngày càng kính yêu, tin tưởng và trân trọng Bác nhiều hơn.
Đặc biệt, những năm cuối đời, Bác luôn da diết nhớ tới đồng bào miền Nam ruột thị, trong đó có nỗi nhớ vô hạn đối với thiếu niên, nhi đồng miền Nam. Trong hoàn cảnh kháng chiến cam go, ác liệt, thiếu nhi miền Nam phải chịu bao đau thương, tang tóc dưới ách xâm lược của đế quốc Mỹ. Bác Hồ luôn lạc quan, tin tưởng sắt đá nhân dân ta nhất định thắng, Nam – Bắc nhất định thống nhất, Bác nhất định sẽ được gặp các cháu thiếu nhi miền Nam vô cùng yêu quý của mình.
Mặc dù điều mong ước được gặp thiếu nhi miền Nam của Bác không trở thành hiện thực, song nhân dân ta đã hoàn toàn chiến thắng; Tổ quốc ta đã độc lập, tự do, thống nhất; các thế hệ thiếu niên, nhi đồng Việt Nam đã được sống trong hòa bình, hạnh phúc, tương lai tươi sáng hơn…
Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng tình thương yêu giữa Bác Hồ đối với thiếu nhi và giữa thiếu nhi đối với Bác Hồ vẫn còn mãi. Đó là tình cảm sâu sắc, thân thiết và cao đẹp vô cùng. Để đền đáp công ơn trời biển và tình thương yêu lớn lao, cao quý của Bác, toàn thể thiếu niên, nhi đồng Việt Nam hôm nay phải luôn cố gắng, nỗ lực thực hiện thật tốt 5 điều Bác Hồ dạy, luôn chăm học, chăm làm “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, tích cực công tác Đội, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Xem Thêm ❤️️ Kể Về Anh Hùng Dân Tộc Mà Em Biết ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay
Có một con người mà khi nhắc đến tên, những người Việt Nam đều vô cùng kính yêu và ngưỡng mộ, đó là Hồ Chí Minh: vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
Trước hết ta thấy Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Bác là người chiến sỹ tiên phong trên mặt trận cứu nước đầy gian khổ, lãnh đạo dân ta tới chiến thắng, khai sáng nền độc lập tự do ở đất nước Việt Nam. Người bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường đi và tương lai cho đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người đã dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi đói nghèo, đi lên xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp.
Tư tưởng của Người có giá trị vô cùng to lớn đối với Cách Mạng Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Người đã hy sinh cả cuộc đời vì nền độc lập tự do của dân tộc, Người yêu nước thương dân sâu sắc, bởi vậy triệu triệu người dân Việt Nam đều là con cháu của Người. Ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước nhưng cách đối xử của Bác đối với cá nhân từng người vô cùng thân mật và gần gũi.
Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc Việt Nam lại có một vị lãnh tụ giản dị và gần gũi với mọi người như thế: Sống trong ngôi nhà sàn nhỏ, ăn những món ăn dân dã, mặc áo bà ba nâu và tư trang chỉ là một chiếc rương nhỏ và mấy bộ quần áo bạc màu …Có lẽ bởi vậy mà với người Việt Nam, Bác Hồ không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là vị lãnh tụ vĩ đại được mọi người dân Việt Nam kính yêu và ngưỡng vọng.
Bác Hồ còn được biết đến ở cương vị một danh nhân văn hoá thế giới. Bác đã từng là chủ bút tờ báo “Người cùng khổ ”ở Pháp, đã từng viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”gây tiếng vang lớn. Người còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam với những tập truyện ký bằng tiếng Pháp, “Tuyên ngôn độc lập” và “Nhật ký trong tù” cùng rất nhiều những vần thơ khác nữa…
Bác Hồ đã từng đi khắp các châu lục trên thế giới, thông thạo nhiều thứ tiếng, am hiểu nền văn hoá của nhiều dân tộc. Bác đã rèn giũa và tạo dựng cho mình một phong cách riêng, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, thanh cao và giản dị, giữa tinh hoa văn hoá nhân loại và tinh hoa văn hoá Việt Nam.
Bác là tinh hoa khí phách của dân tộc, cuộc đời của Bác là một tấm gương sáng. Bởi vậy mà chúng ta cần “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại ”.
Tham khảo cách hành văn xúc động, cuốn hút người đọc với bài văn mẫu thuyết minh về Chủ tịch Hồ Chí Minh chi tiết sau đây.
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người là một cuộc đời trong sáng, cao đẹp của một vị anh hùng dân tộc, một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc. Người đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội. Tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh thời Bác có rất nhiều tên gọi, mỗi tên gọi lại gắn với khoảng thời gian hoạt động cách mạng riêng và trong những hoàn cảnh riêng.
Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước và tại quê hương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sinh ra trong hoàn cảnh nước mất, nhân dân lầm than dưới ách đô hộ của Thực dân Pháp càng khiến lòng yêu nước được trỗi dậy và nung nấu ý chí đánh đuổi thực dân từ khi Bác còn rất trẻ. Cũng lúc ấy Bác Hồ đã chứng kiến rất nhiều những nỗi khổ cực của nhân dân và các cuộc đấu tranh chống thực dân của dân tộc chịu thất bại và đi vào bế tắc.
Cũng chính khi ấy, chàng thanh niên Nguyễn Sinh Cung quyết định ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Bác quyết định sang các nước phương Tây và sống hòa mình với nhân dân lao động. Trong suối ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài Người đã đi đến nhiều nước, vừa học tập vừa hoạt động cách mạng, vừa nghiên cứu tìm đường cứu nước.
Sau 30 năm ở nước ngoài thì Bác đã trở về nước lãnh đạo phong trào cách mạng của dân tộc. Quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi và đặc biệt là sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Khi hòa bình được lập lại thì Bác đã đứng ra điều hành đất nước. Đưa ra nhiều chính sách, phát động nhiều phong trào và tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng miền Nam để thống nhất đất nước.
Có thể thấy Hồ chủ tịch là một người có lòng yêu nước nồng nàn. Một người lãnh đạo tài ba, dũng cảm. Ngoài ra Người còn được thế giới biết đến với vai trò của một nhà thơ lớn. Mặc dù thời gian Bác dành cho thơ ca không nhiều nhưng vốn là người có tâm hồn thơ nhạy cảm, lãng mạn và là người có phong thái ung dung, tự tại nên Người có nhiều bài thơ gắn với từng hoàn cảnh của cuộc đấu tranh của dân tộc cũng như hoạt động cách mạng của Người.
Khi hoạt động ở bên Trung Quốc, Bác Hồ đã từng bị chính quyền Tưởng bắt giam. Cũng lúc này người đã sáng tác một tập thơ có giá trị và được nhiều người biết đến, tập thơ “Nhật ký trong tù”. Có thể thấy dù hoàn cảnh như thế nào thì Người vẫn rất tự tại, vẫn rất nhạy cảm trước thiên nhiên, trước thời cuộc. Thơ của Người chính là sự kết hợp tinh túy giữa tinh hoa dân tộc và văn hóa thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã trở thành tấm gương về nhiều mặt cho nhiều lớp người noi theo. Người không chỉ tài giỏi, dũng cảm, ý chí quyết tâm sắt đá mà còn là người mang nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Một người là chủ tịch của cả một quốc gia nhưng lại hết sức giản dị. Sự giản dị của Bác đã được bác Phạm Văn Đồng viết rất rõ trong bài “Đức tính giản dị của Bác Hồ”. Giản dị từ cách ăn mặc, sinh hoạt đến lời nói, cử chỉ. Những chiếc áo nâu sờn cũ, đôi dép cao su đã theo bác từ những ngày còn ở chiến khu đến khi về thủ đô. Nó đã theo Bác đi khắp nẻo đường. Rồi những bữa cơm giản dị, nơi ở là một căn nhà sàn nhỏ, đơn sơ.
Bác luôn có thái độ gần gũi với nhân dân, yêu quý và chăm lo cho đời sống của mọi người, của các cháu thiếu nhi. Mỗi câu chuyện về Bác đều đem lại những cảm xúc nghẹn ngào thấm thía, những bài học cho chúng ta noi theo. Chính vì vậy chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân yêu quý và gọi bằng tên gọi rất đỗi thân thương, kính trọng: Bác Hồ – vị cha già của dân tộc.
Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Nhắc đến Bác, nhân dân Việt Nam đều kính trọng và thương yêu vô cùng.
Tham Khảo 🌿 Tả Ảnh Bác Hồ ❤️️15 Bài Văn Tả Chân Dung Bác Hồ Hay Nhất
“Nếu so sánh sự nghiệp đấu tranh chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc kéo dài suốt ba mươi năm của dân tộc ta là một con tàu giữa đại dương đầy bão tố thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thuyền trưởng tài ba, sáng suốt, đã đưa con tàu vượt qua trùng trùng sóng gió, cập bến vinh quang.” Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Suốt đời, Bác hi sinh cho độc lập, tự do…”.
Đất nước Việt Nam tự hào về Bác Hồ bởi Bác chính là sự kết tinh những tinh hoa truyền thống của bản sắc dân tộc. Nhân dân ta đã thấy ở Bác Hồ con người Việt Nam đẹp nhất và nhân dân thế giới gắn liền tên nước Việt Nam với tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt Nam – Hồ Chí Minh.
Với vai trò của một lãnh tụ cách mạng, Bác đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình đối với dân, với nước. Bác là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, cùng Đảng dẫn đường chỉ lối cho dân tộc vùng lên phá bỏ xích xiềng nô lệ thực dân, phong kiến, giành quyền sống tự do. Người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có chủ quyền độc lập thiêng liêng.
Sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ vĩ đại như non cao, biển rộng nhưng Bác lại sống một cuộc sống vô cùng giản dị và tuyệt vời trong sáng. Suốt cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân, Người dành hết cho nhân dân, cho Tổ quốc. Câu nói tâm huyết nêu rõ mục đích phấn đấu và lí tưởng cao cả của Bác Hồ đã làm rung động trái tim bao người: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành… Mục đích ấy, lí tưởng ấy là nguồn sức mạnh vô biên, thôi thúc Bác suy nghĩ, hành động và cống hiến cuộc đời mình cho dân, cho nước.
Đức tính khiêm tốn, giản dị của Bác đã trở thành huyền thoại. Sau khi Bác mất, căn nhà sàn Bác ở mở rộng cửa đón đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế đến thăm. Không ai là không xúc động trước những vật dụng gắn bó với Bác gần như suốt cuộc đời: chiếc máy chữ và chiếc đồng hồ cũ kĩ trên bàn làm việc, đôi dép lốp cao su mòn gót…
Giường mây, chiếu cói đơn chăn gối.
Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn…
Bác không bao giờ đòi hỏi điều kiện vật chất tối đa cho riêng mình. Ngược lại, Bác thanh thản, lạc quan trong cuộc sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư nhưng những gì Người để lại cho nhân dân, cho đất nước có thể sánh ngang với núi cao, biển rộng.
Trước lúc đi xa vào cõi vĩnh hằng, Bác viết trong Di chúc: Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng… Sự ra đi của Bác là một tổn thất lớn lao không gì bù đắp được. Bác đã hóa thân vào sông núi, biển trời… của đất nước Việt Nam mà Người hằng yêu dấu.
Nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân thế giới yêu mến và khâm phục, còn kẻ thù cũng phải nghiêng mình kính nể bởi Bác Hồ là hiện thân sinh động nhất của truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm. Căm thù chiến tranh, yêu mến hòa bình, nỗ lực cống hiến cho một nền hòa bình, thịnh vượng của toàn nhân loại, những điều đó đã tạo nên sức cảm hóa, thuyết phục lớn lao của Bác. Bác Hồ đã được Hội đồng hòa bình thế giới phong cho danh hiệu cao quý là Chiến sĩ hòa bình, là Danh nhân văn hóa của nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại vinh quang cho đất nước Việt Nam dân tộc Việt Nam. Các thế hệ tiếp nối đã đi theo con đường cách mạng đúng đắn mà Bác đã dẫn đường chỉ lối, biến khát khao cháy bỏng của Người thành hiện thực: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh để sánh vai với các cường quốc khắp năm châu.
Đọc Thêm Bài 🌿 Tả Về Bác Hồ Lớp 2 ❤️️15 Bài Văn Tả Bác Hồ Hay Nhất
Nếu như Xô – Viết tự hào vì có Mác – Lênin; nước Mỹ tự hào với Oasinhton thì Việt Nam tự hào biết mấy khi có Bác Hồ. Bác không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một doanh nhân văn hóa của cả nhân loại. Hình ảnh Bác Hồ kính yêu luôn là hình mẫu lý tưởng để nhân dân ta noi gương, học tập.
Bác Hồ tên thật là Nguyễn Sinh Cung, quê ở Nghệ An. Là một nhà nho yêu nước, không cam chịu cảnh nước mất nhà tan, đất nước chia cắt, với hai bàn tay trắng Bác đã lên đường ra nước ngoài học hỏi. Người đi khắp năm châu bốn bể, học những cái hay, cái khoa học, cái mới về truyền dạy cho dân ta; người đọc và tìm tòi những cương lĩnh, nghiên cứu để rồi áp dụng vào tình thế đất nước để tim ra con đường cứu nước đúng đắn nhất, đưa nhân dân ta thoát khỏi ách thống trị lầm than.
Trong suốt cuộc hành trình ấy với bao gian nan, hiểm nguy, khó khăn bộn bề, có khi bị giặt bắt, dùng hình nhưng người chẳng nản trí. Người dùng tuổi trẻ và sức lực của mình để cống hiến cho dân tộc, mang lại ấm no yên bình cho nhân dân. Ta có thể kể đến các cống hiến vĩ đại trên con đường cứu nước gian nan của người như: Bản yêu sách 8 điểm; Bản án chế độ thực dân Pháp (1925); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946). Tất cả những gì Bác làm, từ những điều đơn sơ nhỏ nhặt nhất cũng đều xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân bao la. Và không phụ sự kỳ công, khó nhọc, trăn trở dưới sự lãnh đạo tài ba của Bác, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng và giành chiến thắng, đánh đuổi được bè lũ xâm lược ra khỏi bờ cõi đất nước, trả lại vẹn toàn tổ quốc, hòa bình ấm no dân tộc.
Khi hòa bình lập lại, Hồ chủ tịch đứng ra điều hành đất nước với nhiều chính sách phát triển, đối nội và đối ngoại hợp lý để nâng cao đời sống nhân dân, ổn định và phát triển kinh tế. Hồ chủ tịch được nhân dân tin yêu với cái tên Anh hùng giải phóng dân tộc.
Một con người cứng rắn, dũng cảm trong đường lối quân sự, chính trị như thế nhưng rạo rực trong Bác lúc nào cũng là một tâm hồn thơ nhạy cảm, lãng mạn, một thi nhân văn hóa được thế giới công nhận. Thơ của Bác không nhiều, không dài nhưng lại rất cô đọng, súc tích và có giá trị. Tiếng thơ của Bác mang nhiều màu sắc đa dạng và phong thái khác nhau. Có lúc là tiếng thơ chiến đấu hừng hực:
Nhưng dù ở trong hoàn cảnh nào toát lên từ thơ Bác vẫn là nỗi lòng vì non sông nước nhà, và tâm hồn phóng khoáng, lạc quan, yêu thiên nhiên, tạo vật; say mê hứng thú với cái đẹp; trân trọng những gì dù là nhỏ nhặt và dung dị nhất. Thơ của Bác chính là sự kết hợp tinh túy giữa tinh hoa dân tộc và văn hóa thời đại, tạo nên một bản sắc đặc trưng rất riêng mang âm hưởng thi ca Hồ Chí Minh.
Không chỉ tài năng vĩ đại, Bác Hồ còn là tấm gương đạo đức sáng ngời cho lớp lớp người noi theo. Bác để lại ấn tượng trong lòng quân dân ta và bạn bè quốc tế bởi sự thanh bạch, liêm khiết và giản dị. Sự giản dị của Bác được thể hiện qua cách ăn, mặc sinh hoạt của Bác: tấm áo nâu sờn cũ và đôi dép cao su đã theo chân Bác đi khắp mọi nẻo đường; đi công tác xa Bác luôn dặn anh đầu bếp chuẩn bị cơm sẵn để nhân lúc nghỉ ngơi dọc đường ăn tránh gây phiền hà địa phương.
Là vị lãnh tụ vĩ đại nhưng Bác lại chọn cho mình một căn nhà sàn nhỏ đơn sơ nơi cuối vườn để nghỉ ngơi và làm việc. Bác luôn gần gũi với nhân dân, đi sâu vào cuộc sống dân tình để thấu hiểu lòng dân; yêu quý và chăm lo cho đời sống mọi người, các cháu thiếu nhi… Bác Hồ luôn đi đầu trong các phong trào, vận động nhân dân ta học và làm theo để phát triển đời sống kinh tế cá nhân và cộng đồng, ví dụ như: Phong trào diệt giặc đói; giặc dốt; phong trào tập thể dục thể thao; tết trồng cây. Mỗi câu chuyện về Bác lại thật xúc động, và thấm thía.
Kết tinh trong dáng người nhỏ bé ấy là biết bao vẻ đẹp tinh hoa. Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại dân tộc; vị cha già yêu thương của con em Việt Nam và là một tấm gương đạo đức sáng ngời. Dù Bác đã đi xa nhưng những tư tưởng chỉ đạo của Bác, những câu chuyện và lời dạy ấy vẫn được nhân dân ta tiếp nối và phát triển. Những tư tưởng đó sẽ là ngọn đèn sáng soi để Đảng, Nhà nước và nhân dân học tập, lao động, cố gắng, phấn đấu để đưa nước nhà tiến lên phát triển; xứng vai với các cường quốc năm Châu thế giới như lời Bác đã từng căn dặn.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 ở Kim Liên huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân nên sớm có lòng yêu nước, nhiệt huyết cách mạng.
Năm 1911 Người đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. Mùa xuân năm 1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long gần Hương Cảng, thông qua “Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt” của Đảng Cộng sản Việt Nam (Hội nghị của Đảng tháng 10 năm 1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 – 1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của Liên Xô và các nước đồng minh. Tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội Nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân Đã họp quyết định tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8 năm 1945, Người lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Người đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Ngay sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Trước nạn ngoại xâm Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, từng bước giành thắng lợi.
Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Từ năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt qua khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Từ năm 1965 đến năm 1969, cùng với Trung ương Đảng, Người tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện cả nước có chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.
Có thể thấy, cả cuộc đời của Hồ Chủ tịch đều dành trọn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh chính là vị lãnh tụ đáng kính của nhân dân Việt Nam.
Xem Thêm 🌿 Tả Về Bác Hồ ❤️️15 Bài Văn Tả Chủ Tịch Hồ Chí Minh Hay Nhất
Văn mẫu thuyết minh về Bác ngắn hay sau đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Tháng 6 năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
Hồ Chủ tịch là lãnh tụ cách mạng vô sản kiệt xuất, một chiến sĩ cộng sản lão thành, Danh nhân văn hóa của thế giới. Với dân tộc Việt Nam, Người là Cha, là Bác, là Anh, là “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”…. Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch – con người giản dị và vĩ đại – tiêu biểu cho truyền thống bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang.
Đầu thế kỉ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành thấu hiểu nỗi nhục nô lệ dưới ách xâm lược của thực dân Pháp nên đã noi gương các sĩ phu tiền bối như Phạn Bội Châu, Phan Chu Trinh… tìm đường cứu nước. Rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) năm 1911, Nguyễn Tất Thành nung nấu ý chí là phải sang tận nước Pháp để tìm hiểu kẻ thù, từ đó có cách chống lại chúng.
Ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã cống hiến rất nhiều cho phong trào đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới và trở thành người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1941, với vốn sống thực tế, với kinh nghiệm dày dặn và trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Lòng nhân ái của Hồ Chủ tịch thể hiện lí tưởng cao cả là một đời phấn đấu, hi sinh để mưu cầu độc lập tự do cho dân, cho nước: Tự do cho tổ quốc tôi, cơm áo cho đồng bào tôi. Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Tình yêu thương con người của Bác sâu sắc và rộng lớn. Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, Bác thương em bé mới nửa tuổi đã phải theo mẹ vào chốn lao tù (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương – Nhật kí trong tù). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác thương các cháu nhi đồng phải sống khổ sở vì thiếu thốn, vì bom đạn: Nay vì vận nước gian nan, trẻ em cũng phải lầm than cực lòng. Bác luôn quan tâm và yêu thương các cháu với tình cảm chân thành, ruột thịt: Ai yêu nhi đồng, bằng Bác Hồ Chí Minh…
Bác thông cảm với người lao động vất vả, cơ cực, lo nỗi lo mất mùa, chia sẻ niềm vui được mùa với nông dân: Nghe nói năm nay trời đại hạn, Mười phân thu hoạch chỉ vài phân… Khắp chốn nông dân cười hớn hở, Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.. (Nhật kí trong tù).
Bác sống giản dị, thanh bạch, không bao giờ nói về mình. Đức khiêm tốn, sự hài hòa giữa tư tưởng vĩ đại và phong thái tự nhiên, hồn hậu, gắn bó chan hòa với con người và thiên nhiên của Bác đã tạo nên sức thuyết phục lớn lao đối với dân tộc và nhân loại.
Hồ Chủ tịch là một nhân cách khiêm tốn, giản dị và vĩ đại. Tài năng và đức độ của Bác rất xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà cả nhân loại đã tôn vinh: lãnh tụ cách mạng vô sản xuất sắc, chiến sĩ hòa bình, Danh nhân văn hóa thế giới… Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Bác là kết tinh tinh hoa của bốn ngàn năm lịch sử và thời đại. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một Con Người cộng sản chân chính của mọi thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Tháng 6 năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt ba mươi năm hoạt động, Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cuộc đời của Bác được biết đến không chỉ bằng những công lao to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mà còn là bởi phong cách sống giản dị không giống với bất kì một vị nguyên thủ quốc gia nào trên thế giới. Vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh đến từ sự giản dị trong cuộc sống hằng ngày.
Hàng loạt những dẫn chứng cụ thể và toàn diện để chứng minh điều ấy. Với cương vị của một nhà lãnh đạo nhưng Bác Hồ lại “lấy chiếc nhà sàn nhỏ bé bằng gỗ bên cạnh chiếc áo làm “cung điện” của mình”. Chiếc nhà sàn “vỏn vẹn có vài phòng dùng làm nơi tiếp khách, nơi họp Bộ chính trị, nơi làm việc và ngủ”. Trang phục của Bác cũng đơn giản hết mực “với bộ áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ”. Món ăn hàng ngày thì vô cùng đạm bạc – toàn là món ăn dân tộc không chút cầu kì: “cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa”. Bác sống ở đó một mình với “tư trang ít ỏi là một chiếc va li con và một bộ quần áo, vài vật kỉ niệm”.
Dường như, ta có thể cảm nhận được hình ảnh của chính người nông dân Việt Nam trong con người Bác – một vị lãnh tụ của dân tộc. Lối sống giản dị của Người khiến mỗi người dân Việt Nam cảm nhận được sự gần gũi, thân tình không thể tìm thấy được trong bất kì một vị chủ tịch hay tổng thống nào trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng ngời để các thế hệ sau học tập và làm theo.
Gợi ý ❤️️Thuyết Minh Về Tác Giả Trương Hán Siêu ❤️️12 Bài Văn Hay
Bài văn mẫu thuyết minh về Bác hay đặc sắc sau đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn hay cũng như cách diễn đạt khéo léo, hấp dẫn thu hút người đọc.
Chủ tịch Hồ Chí minh là một vị lãnh tụ, một nhà cách mạng đại tài, người con là nhà thơ nhà danh nhân văn hóa thế giới. Trong cuộc đời người đã để lại cho đất nước con người Việt Nam rất nhiều truyền thống quý báu. Nhưng có lẽ cái đáng nhớ nhất ở người chính là tư cách đạo đức tinh thần Cần- Kiệm- Liêm- Chính- Chí – Công- Vô -Tư.
Đất nước chúng ta luôn tự hào về người, bởi người chính là sự kết tinh của vì sao tinh tú nhất. Người là ánh sáng, là niềm tin cho muôn dân soi vào. Ở bất kỳ vai trò nào người cũng hoàn thành vai trò, nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc.
Trong vai trò một người lãnh tụ người đã dẫn dân tộc Việt Nam ra khỏi đêm tối nô lệ. Người lên đường bôn ba khắp năm châu để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc ta. Đó chính là con đường cách mạng theo đường lối Mác – Lê Nin.Nhờ con đường mà người tìm thấy mà dân ta thoát khỏi kiếp tối tăm. Tổ quốc ta trở thành nước độc lập, người dân của ta ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành.
Với cương vị một người cha già dân tộc người đã chăm lo, quan tâm tới đời sống của tất cả người dân. Bác đã lo lắng cho từng người già, trẻ nhỏ, từng người chiến sĩ. Biết bao nhiêu đêm Bác thức trắng, trằn trọc không ngủ khi lo lắng cho những người dân cho, số phận của dân tộc mình.
Trong vai trò một nhà văn, nhà thơ một danh nhân văn hóa Bác Hồ cũng đã để lại nhiều tác phẩm hay, gây được tiếng vang lớn như tập thơ “Nhật ký trong tù”, Cảnh khuya, hay “Bản tuyên ngôn độc lập”…những tác phẩm của Bác không chỉ hay về mặt nghệ thuật mà nó có tác động sâu sắc tới tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân. Nó còn là thanh gươm sắc bén nhằm thẳng vào những kẻ xâm lược, gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa, bất lương.
Trong cuộc sống hàng ngày, Bác là người vô cùng giản dị, nếp sống mộc mạc, chân thành, tiết kiệm của Bác là tấm gương sáng cho thế hệ chúng ta hôm nay phải noi theo. Mỗi bữa cơm của người chỉ vài miếng cá kho, rau luộc, tương cà…Người bảo đất nước ta còn nghèo phải tiết kiệm vì miền Nam thân yêu còn chưa được giải phóng. Bác chăn nuôi ao cá, tự trồng rau, nuôi gà…để tạo ra những thực phẩm thiết yếu phục vụ cho mình.
Bác hy sinh rất nhiều, cống hiến rất nhiều nhưng chưa bao giờ người tư lợi một điều gì cho riêng mình. Người sống an nhiên, ra đi thanh thản. Cái người băn khoăn mãi trước lúc lâm chung đó chính là việc quê hương miền Nam của chúng ta vẫn chưa hoàn toàn giải phóng. Đúng như hai câu thơ mà nhà thơ Tố Hữu đã viết tặng Bác Hồ:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”
Trong bản Di chúc trước lúc ra đi người đã viết lại rằng “Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng…”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi nhưng những tư tưởng chân lý của người vẫn còn sáng mãi. Các thế hệ nối tiếp người sẽ luôn phải phát huy và làm theo những lời người đã khuyên nhủ, dạy dỗ.
Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỉ nhưng nỗi xót thương và niềm yêu kính của mỗi người dân Việt Nam dành cho Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – chưa bao giờ nguôi cạn. Nhớ đến người, những dòng người hướng về lăng Bác tưởng như không bao giờ dừng lại.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và quần thể lăng gồm quảng trường Ba Đình, khu nhà sàn, vườn cây,… sau hai năm xây dựng, ngày 19/8/1975 đã được khánh thành.
Mặt chính của lăng nhìn ra hướng đông là Quảng trường Ba Đình. Lăng gồm ba lớp với chiều cao 21,6 mét. Lớp dưới kết cấu bậc nhiều cấp, có lễ đài dành cho đoàn chủ tịch khi mít tinh. Phần giữa là kết cấu trung tâm của lăng, gồm phòng thi hài, hành lang, cầu thang lên xuống. Phần trên là mái lăng được tạo dáng cách điệu bông sen nở. Mặt chính lăng có dòng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá hồng ngọc màu mận chín.
Lăng là nơi lưu giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Cha già dân tộc, người đã được UNESCO tặng danh hiệu Danh nhân Văn hóa thế giới và Anh hùng giải phóng dân tộc nhân kỷ niệm 100 ngày sinh (1890 – 1990).
Công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động sáng tạo của nhiều nhà khoa học và công nhân hai nước Việt Nam – Liên Xô tỏ lòng tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh và là sản phẩm của tình hữu nghị Việt – Xô.
Lăng Bác quay về hướng Đông để đón ánh mặt trời, trước cửa lăng là quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi đây, ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã chứng kiến những giờ phút thiêng liêng nhất của dân tộc khi Hồ Chí Minh đứng trước quốc dân đồng bào đọc “Tuyên ngôn Độc lập” công bố với thế giới nền độc lập lâu bền của dân tộc Việt Nam ta.
Phía tây của Quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chủ tịch. Tại đây còn có Bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn là nơi ở của Người, hồ cá, vườn cày, rặng dừa, những hàng rào dâm bụt. Tất cả đã đi vào thơ ca Việt Nam:
Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi Người qua đời. Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm.
Sau nhà là vườn quả với hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi biếu Bác năm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa, Mê Linh; cam Hải Hưng, Xuân Mai, Vần Du, Xã Đoài; quýt Hương Cần, Lý Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ, song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền (quê hương nhà thơ Nguyễn Du). Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước ngoài như ngàn hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê…
Nhân dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng trường Ba Đình lịch sử. Nhắc đến lăng Bác, lòng người lại rưng rưng trong niềm thương nhớ:
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Cùng đón đọc bài văn thuyết minh về quê Bác lớp 8 hay và giàu cảm xúc được chúng tôi chia sẻ sau đây.
Làng Sen – quê nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một làng quê thơm ngát hương sen, đó chính là nơi người đã sống trong thời niên thiếu (1901-1906).
Có một ngôi làng mà những hình ảnh thân thương gần gũi đã đã in sâu vào tâm thức người Việt. Nơi ấy có những mái nhà tranh dưới những lũy tre xanh, có nhịp võng trưa hè cùng tiếng ru ầu ơ của mẹ, có câu dân ca mênh mang cùng đồng ruộng núi sông… Ngôi làng mang tên làng Sen vì luôn ngát hương sen; là quê hương của Bác Hồ kính yêu, người con ưu tú của dân tộc!
Làng Sen thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An- mảnh đất miền Trung đầy nắng gió. Từ thành phố Vinh đi theo Quốc lộ 46 khoảng 15km là tới làng Sen, quê Bác.
Dẫu đã qua cả thế kỷ, vạn vật đổi thay nhưng những hình ảnh xưa cũ của làng Sen gắn liền với tuổi thơ Bác vẫn được lưu giữ đến bây giờ như một miền ký ức đẹp và là tấm gương sáng cho mọi những thế hệ.
Đó là giếng Cốc, cây đa, đền làng Sen, nhà thờ họ Nguyễn Sinh… và đặc biệt là ngôi nhà tranh của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc- thân phụ Bác, nơi gắn bó với tuổi thơ của Bác Hồ, cũng là khởi nguồn cho một tinh thần yêu nước và ý chí lớn lao của người anh hùng dân tộc sau này.
Năm 1901, thân phụ Bác Hồ là Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng, là một niềm vinh dự với gia đình, họ tộc và cả làng Sen. Dân làng Sen đã dựng một ngôi nhà gỗ mái tranh 5 gian để đón vị Phó bảng vinh quy bái tổ.
Cả gia đình đã từ làng Hoàng Trù (quê ngoại Bác Hồ) trở về sống tại Làng Sen. Ngôi nhà này đã gắn với tuổi thơ Bác Hồ từ năm 1901 đến năm 1906 (trước khi theo cha vào Huế).
Dù đã đỗ đạt song gia đình cụ Phó bảng vẫn sống thanh đạm. Phần lớn các đồ đạc trong nhà đều do dân làng tặng, những kỷ vật tới giờ được gìn giữ gần như nguyên vẹn.
Ngôi nhà của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã gắn bó với một giai đoạn quan trọng đầy ý nghĩa thời niên thiếu của cuộc đời Bác Hồ từ năm 11- 16 tuổi.
Ngôi nhà là những ân tình làng xóm quê hương, là nơi chứng kiến quá trình học tập, trưởng thành; là nơi ghi dấu cảm xúc đầu tiên về lòng yêu nước và những nhận thức thời cuộc- bước tiền đề cho con đường cứu nước sau này của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngôi nhà tranh lịch sử là cụm di tích quan trọng bậc nhất của Khu di tích lịch sử Kim Liên – được xây dựng từ những năm 60 thế kỷ trước, cùng nhiều hạng mục kiến trúc khác, được nâng cấp và tôn tạo nhiều lần.
Ngoài ra, chúng tôi còn chia sẻ thêm cho các em học sinh bài văn thuyết minh về Bác Hồ bằng Tiếng Anh ngắn gọn sau:
This essay is going to introduce Ho Chi Minh, one of the greatest leaders that Vietnam has ever produced over the course of more than 1000 years of building and defending our country, the person who is not only venerable to me but also to millions of Vietnamese people and other people all over the world.
He was born on May, 19th 1890 in Sen (Lotus) Village, Nam Dan district, Nghe An province, a province located in the middle part of Vietnam, which is about 6 hours driving from Hanoi. He had many different names during the course of his life; his birth name was Nguyen Sinh Cung; he was also known as Nguyen Tat Thanh and Nguyen Ai Quoc, which literally means a country lover or a patriot).
He used to be a Vietnamese Communist revolutionary leader who was the prime minister (1945-1955) and president (1945-1969) of the Democratic Republic of Vietnam. He was a central figure in the foundation of the Democratic Republic of Vietnam in 1945, as well as the People’s Army of Vietnam and the Viet Cong during Vietnam War.
He led the Viet Minh independence movement from 1941 onward, establishing the Communist-ruled Democratic Republic of Vietnam in 1945 and defeating the French Union in 1954 at the battle of Dien Bien Phu. He officially stepped down from power in 1965 due to health problems, but remained a highly visible figurehead and inspiration for those Vietnamese fighting for his cause—a united, communist Vietnam—until his death. After the war, Saigon, the former capital of the Republic of Vietnam, was renamed Ho Chi Minh.
Despite being the prime minister-cum-the president of the Democratic Republic of Vietnam, he lived a frugal and humble life. He didn’t choose to live in the Presidential Palace but a stilt house at the back of the palace, which is today known as the Presidential Palace Historical Site. His hobbies included reading, gardening, feeding fishes (many of which are still living) and visiting schools and children’s homes. He’s such a good role model for me to learn from.
Tạm dịch:
Bài luận này sẽ giới thiệu về Hồ Chí Minh, một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất mà Việt Nam từng sản sinh ra trong hơn 1000 năm xây dựng và bảo vệ đất nước của chúng tôi, Người không chỉ có tôi tôn kính mà còn có hàng triệu người Việt Nam và những người khác trên khắp thế giới đều tốn kinh Người.
Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Sen (Lotus), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, một tỉnh nằm ở miền Trung Việt Nam, cách Hà Nội khoảng 6 giờ lái xe. Người có nhiều tên gọi khác nhau trong suốt cuộc đời; tên khai sinh của Người là Nguyễn Sinh Cung; còn được gọi là Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Ái Quốc ( nghĩa đen có nghĩa là một người yêu nước).
Người từng là một nhà lãnh đạo cách mạng Cộng sản Việt Nam, là Chủ tịch nước (1945-1955) và là tổng bí thư (1945-1969) của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Người là một nhân vật chủ chốt trong nền tảng của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1945, cũng như Quân đội Nhân dân Việt Nam và Cộng sản trong Chiến tranh Việt Nam.
Người lãnh đạo phong trào độc lập Việt Minh từ năm 1941 trở đi, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1945 và đánh bại Thực dân Pháp năm 1954 tại trận Điện Biên Phủ. Người chính thức về hưu vào năm 1965 do các vấn đề sức khỏe, nhưng vẫn là một nhân vật có thể nhìn thấy và tạo cảm hứng cho những người Việt Nam chiến đấu. Sau chiến tranh, Sài Gòn, cựu thủ đô của nước Cộng hòa Việt Nam, được đổi tên thành Hồ Chí Minh.
Mặc dù là Chủ tịch của nước nhưng Người sống một cuộc sống tiết kiệm và khiêm nhường. Người không chọn sống trong Dinh thư mà là một ngôi nhà sàn ở phía sau phủ Chủ tịch. Sở thích của Người bao gồm đọc sách, làm vườn, cho cá ăn (nhiều trong số đó vẫn còn sống) và đến thăm trường học và nhà trẻ em. Hồ Chủ Tịch thực sự là một người mẫu vĩ đại cho tôi học hỏi.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
8 Bài Văn Thuyết Minh Hay Nhất Về Cách Học Văn Hiệu Quả
Văn là môn học bắt buộc với tất cả cấp học, nhưng nhìn vào thực tế hiện nay, có rất nhiều người bỏ mặc hoặc chưa thực sự thích môn học này. Nguyên nhân xuất phát từ việc các bạn chưa tìm được một phương pháp học văn hiệu quả cho bản thân. Việc chia sẻ kinh nghiệm học và làm văn rất cần thiết và bổ ích. Kinh nghiệm tự học văn, làm văn được chia sẻ dưới dạng đề văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả sẽ giúp chúng ta điều đó.
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 4Ngữ văn – tên gọi hiện hành của môn văn trong nhà trường phổ thông hiện nay, là bộ môn đang gặp phải sự lo ngại trước tình trạng đa phần học sinh chán nản, không yêu thích. Tại sao lại có hiện tượng như vậy? Phải chăng việc học văn không hứng thú là do chương trình quá nặng, phương pháp của thầy cô chưa đáp ứng được hay bởi sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội khiến học văn không còn cần thiết? Dù là lý do gì thì trước hết vẫn xuất phát từ người học. Người học chưa tự yêu thích hoặc chưa coi học văn có ý nghĩa giá trị quan trọng không chỉ trong nhà trường mà còn ngoài cuộc sống. Bởi vậy, phương pháp học văn sẽ là khâu trọng yếu giúp học tốt môn này. Và phương pháp học văn theo lối tư duy sau đây sẽ gợi ý giúp các bạn.
Nhắc tới học tập theo phương pháp tư duy, nhiều người nghĩ nó phù hợp với lối học của các môn tự nhiên hơn. Nhưng không phải, đây là kinh nghiệm học tập phù hợp với tất cả các bộ môn khoa học. Riêng với môn văn hiện nay, là một môn rất quan trọng, nhiều bạn học sinh quan tâm vì đó là môn sẽ có mặt trong tất cả các kỳ thi. Bởi vậy việc học, làm văn theo lối tư duy rất cần thiết, đáp ứng được nhu cầu cho cả đối tượng học sinh yêu thích môn văn và học sinh chỉ học văn theo đáp ứng bộ môn.
Vậy học văn, làm văn theo lối tư duy là như thế nào? Là cách học theo hệ thống logic rõ ràng, mạch lạc vừa giúp ghi nhớ kiến thức vừa giúp suy luận. Môn văn là bộ môn khoa học xã hội, khối lượng kiến thức khá nhiều, việc học theo lối tư duy vô cùng phù hợp, giúp người học văn không cần phải “học thuộc lòng” như nhiều người vẫn nghĩ mà vẫn ghi nhớ và đảm bảo được kiến thức của bộ môn này.
Đầu tiên, sử dụng tư duy để xây dựng hệ thống kiến thức cho nội dung bài học. Hiện nay kiến thức môn văn chia làm hai phần là đọc hiểu và tạo lập văn bản. Kiến thức của phần đọc hiểu bao gồm kiến thức tiếng Việt và làm văn. Hầu hết là các khái niệm, các tính chất, đặc điểm đã có sẵn. Vậy chỉ cần phân loại, hệ thống. Ví dụ như phần Tiếng Việt có thể chia thành các đơn vị kiến thức về phong cách ngôn ngữ chức năng, các biện pháp tu từ. Còn Làm văn, có các thao tác lập luận, các phương thức biểu đạt.
Đối với tạo lập văn bản, chủ yếu kiến thức là ở các tác phẩm văn học. Ở nội dung này chú ý đến hai phần là kiến thức chung về tác giả, tác phẩm và kiến thức trọng tâm trong tác phẩm. Chẳng hạn như muốn hệ thống kiến thức về tác giả, để tạo nên cái nhìn tổng quát, so sánh, chúng ta chỉ cần tổng hợp trên hai phương diện là vị trí và đặc điểm sáng tác của tác giả đó. Ví dụ về tác giả Phạm Ngũ Lão (ở bài thơ Tỏ lòng), vị trí của ông là một vị danh tướng tài giỏi của nhà Trần, cũng là một nhà thơ của dân tộc; đặc điểm nổi bật trong sáng tác của ông là lòng yêu nước, mang âm hưởng hào hùng, đậm chất hào khí Đông A. Tương tự các tác giả khác cũng làm như vậy. Còn đối với kiến thức trọng tâm ở mỗi tác phẩm, cần hệ thống theo ý. Việc tạo ý sẽ giúp chúng ta nhìn thấy bao quát toàn bộ nội dung vừa là căn cứ để ghi nhớ và suy luận. Chẳng hạn ở bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, có hai nội dung lớn là vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi. Trong vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên có thể hệ thống ba ý là: Bút pháp nghệ thuật: miêu tả, cảm nhận qua hình ảnh, màu sắc, âm thanh, trạng thái, vị trí; Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên: sống động, rực rỡ, căng tràn, bao quát và rất gần gũi, đậm chất làng quê; Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ: Tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên. Cách hệ thống đơn giản mà vẫn giúp học sinh móc nối, liên kết các kiến thức.
Tuy nhiên, cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau khi học văn theo cách này. Đó là phải đảm bảo các kiến thức hệ thống phải chuẩn xác. Thứ hai, Khi xác lập đơn vị kiến thức cần hệ thống, phải lựa chọn từ khóa, sao cho ngắn gọn, súc tích mà vẫn thể hiện được đầy đủ nội dung tinh thần của tác phẩm. Thứ ba, cách ghi chép, trình bày phải khoa học, dễ nhớ thì nội dung hệ thống mới phát huy tác dụng. Chúng ta có thể sử dụng bảng biểu, sơ đồ tư duy, các hình vẽ,… để thể hiện cách hệ thống. Chẳng hạn hệ thống về tất cả các tác giả văn học có thể dùng bảng biểu gồm: tên tác giả, tác phẩm, vị trí của tác giả, đặc điểm sáng tác. Sau đó sắp xếp theo thứ tự, chúng ta sẽ có một bảng hệ thống tất cả các tác giả, chỉ cần gạch chân những từ khóa đối với mỗi tác giả, sẽ rất dễ nhớ và thậm chí so sánh cũng không khó. Hay sơ đồ tư duy là một trong những cách trình bày hỗ trợ rất tích cực trong phương pháp học văn theo lối tư duy. Từ những kiến thức tác phẩm văn học đã được hệ thống theo cách trình bày thông thường, thay vào đó là sơ đồ tư duy với nhiều màu sắc và các cách kí hiệu sẽ dễ dàng giúp cho người học văn nhớ được kiến thức. Việc tự vẽ sơ đồ tư duy cũng sẽ tạo hứng thú cho việc học văn và ghi nhớ một cách không nhàm chán những kiến thức dài của môn học này.
Có thể thấy, việc học văn theo tư duy không hề phức tạp. Cách làm chỉ giúp người học nhận ra tính chất khoa học của bộ môn. Ngoài việc chiếm lĩnh được, kiến thức khi được trình bày theo hệ thống logic sẽ giúp người học tự khai thác khả năng suy luận. Thậm chí khi nhìn vào hệ thống đó, có thể tập học cách diễn giải mà không cần phải có đầy đủ, chi tiết. Việc hệ thống kiến thức theo tư duy cũng sẽ giúp người học văn hình thành cách viết văn theo lối tư duy. Khi có kiến thức trong tay, theo một hệ thống nhất định sẽ rèn cho người viết văn không còn ngẫu hứng, tùy tiện. Trước khi viết bài cũng cần phải có sự tính toán, sắp xếp và khai thác kiến thức sao cho phù hợp, đúng và trúng vấn đề nhất.
Lợi ích của việc học theo lối tư duy không chỉ phù hợp và có hiệu quả đối với môn văn. Nhưng với đặc thù là một môn xã hội, khối lượng kiến thức nhiều, đa dạng, phương pháp học này rất bổ ích và có lợi cho học sinh. Nếu bạn chỉ là học sinh trung bình khá, cách học này giúp bạn không bị hổng kiến thức, còn nếu bạn là học sinh giỏi sẽ là cơ hội để bạn phát huy năng lực cảm thụ, phân tích, suy luận trong văn chương. Trong khuôn khổ của một bài viết ngắn, việc trình bày, giới thiệu về phương pháp này vẫn còn rất sơ lược. Tuy nhiên sẽ phần nào giúp các bạn học tốt và yêu thích môn văn hơn.
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 4
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 1Yếu tố quan trọng của việc học văn đó chính là tự học. Cũng như nhiều môn học khác, tự học bao giờ cũng giúp chúng ta hiểu bài và tiếp thu bài học một cách nhanh hơn khi ở trên lớp. Với 45 phút thì thật khó để thầy cô giáo có thể truyền đạt được hết kiến thức của mình. Vì thế mà thầy cô chỉ có thể truyền đạt được những kiến thức cơ bản nhất và hướng dẫn chúng ta cách mở rộng kiến thức của mình. Nếu không tự học, chúng ta sẽ không thể nào tiếp nhận được những kiến thức đó. Bạn biết không, có rất nhiều nhà khoa học, các tỉ phú trên thế giới thành công và giàu có là nhờ học tự học. Chẳng hạn như Bill Gates, ông không hề học đại học nhưng với tinh thần tự học của mình ông đã mở ra tập đoàn Microsoft.
Nói tự học nghe có vẻ khó khăn bởi nhiều người sẽ cho rằng tự học thì làm sao mà giỏi. Nhưng trên thực tế việc tự học lại đơn giản hơn nhiều. Đặc biệt là tự học môn Văn. Trước hết muốn tự học môn Văn thật tốt, bạn nên xác định chúng học môn học này để làm gì. Có người học Văn vì điểm số, có người học Văn vì cảm thấy thích thú. Nếu bạn học chỉ vì điểm số, bạn sẽ không bao giờ thấy môn Văn thú vị cả. Trong khi đó, văn học giúp nuôi dưỡng tâm hồn của chúng ta. Nếu bạn gắn bó với môn Văn, bạn sẽ thấy tâm hồn mình trở nên trong trẻo hơn và tươi sáng hơn.
Đầu tiên để tự học tốt văn, bạn nên chia thời gian cụ thể. Môn Văn có hai dạng một là kiến thức thuần túy, một dạng là kĩ năng viết văn. Muốn học Văn tốt thì phải có kiến thức, muốn viết văn hay thì phải có kỹ năng. Hai yếu tố này kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau.
Cái mà bạn cần nắm đó chính là nội dung tác phẩm. Trước mỗi một tác phẩm, bạn nên đọc đi đọc lại nội dung của tác phẩm đó, tóm gọn được ý chính mà tác giả muốn nói đến trong bài. Bật mí với bạn là nếu tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác thì chúng ta sẽ hiểu hơn về nội dung của tác phẩm đó đấy. Giờ đây mạng internet đã rất phổ biến rồi, bạn cũng có thể tìm kiếm trên mạng để đọc được nhiều thông tin hơn về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Sau đó, bạn hãy trả lời các câu hỏi ở cuối mỗi tác phẩm. Nếu bạn trả lời được hết thì có nghĩa là bạn đã hiểu được phần nhiều về tác phẩm đó rồi. Ngày hôm sau đến lớp kết hợp với bài giảng của cô giáo nữa là bạn sẽ hiểu được toàn bộ tác phẩm, cảm được toàn bộ tác phẩm. Không chỉ dừng lại ở một tác phẩm, bạn nên tìm kiếm những tác phẩm có nội dung tương tự hoặc tìm những tác phẩm có chung tư tưởng. Điều này có ích cho bạn trong quá trình làm văn có thể đưa ra nhiều dẫn chứng so sánh giúp bài văn trở nên sinh động hơn.
Một khi đã nắm vững kiến thức văn học, bạn có thể vận dụng kiến thức của mình vào trong các bài tập làm văn. Muốn làm văn hay thì trước tiên chúng ta phải hiểu đề. Bao giờ cũng vậy, chúng ta phải phân tích xem đề văn muốn hướng đến vấn đề gì. Chẳng hạn như đề thuyết minh thì khác với đề miêu tả cũng khác với phân tích. Làm văn không đơn thuần là viết lại những kiến thức đã học. Lúc này, bạn phải vận dụng toàn bộ những ngôn từ mà mình có, sắp xếp chúng để làm sao tạo ra được những câu văn hay nhất. Để tránh bị thiếu ý, sót ý thì trước khi vào bài bạn nên dành khoảng 10 phút để lập dàn ý. Nhiều người cho rằng lập dàn ý làm mất thời gian nhưng trên thực tế dựa vào dàn ý bạn sẽ viết văn được nhanh hơn bởi các ý đã được liệt kê ra sẵn rồi. Bạn chỉ cần phát triển nó để tạo nên những đoạn văn hoàn chỉnh mà thôi.
Để viết được bài văn hay, bạn cũng nên đọc nhiều văn mẫu. Cách này rất hiệu quả bởi đọc văn mẫu giúp bạn mở rộng thêm vốn từ vựng của mình. Bài văn của bạn nhờ vậy sẽ hay hơn. Hãy nhớ, chúng ta đọc văn mẫu để tham khảo chứ không phải để sao chép. Tiếp đó là hãy viết thật nhiều. Bạn càng viết nhiều thì khả năng viết của bạn sẽ càng tốt hơn. Đọc lại những bài văn mình viết, bạn sẽ thấy mình còn thiếu sót ở chỗ nào, câu văn nào còn diễn đạt chưa hay.
Xét cho cùng, để học văn, làm văn được tốt, sự nỗ lực của bản thân mỗi người vẫn là quan trọng nhất. Hãy cứ học, cứ đọc và cứ viết rồi bạn sẽ thấy học văn thật sự thú vị.
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 8Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 1Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 1
Văn học là một trong những môn học bắt buộc ở nhà trường các cấp. Văn học không chỉ mang đến cho chúng ta những lời hay ý đẹp mà quan trọng tiềm ẩn sâu trong đó là cách giáo dục những đạo lý làm người của cha ông suốt mấy ngàn năm qua. Thế nhưng bên cạnh những bạn học văn rất tốt, rất say mê môn học này cũng còn một số bạn vẫn còn tỏ ra lúng túng và khó tiếp thu cách học văn. Vậy phải làm sao để học văn có kết quả tốt? Có lẽ nó cũng cần có một số những kinh nghiệm, trau dồi nhất định.
Xưa kia tục ngữ đã có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim”, hay “cần cù bù thông minh”. Con người sinh ra không phải ai cũng ngẫu nhiên mang cho mình một bộ óc vĩ đại toàn năng có thể chứa bất cứ thứ gì trên đời. Não chúng ta cũng tiếp nhận mọi thứ một cách có chọn lọc. Đối với những thứ mình thích và cảm thấy hứng thú thì dù có tiếp xúc một, hai lần cũng có thể ghi nhớ trong một thời gian dài. Còn đối với những việc ta không thích thì dù có nghe đi nghe lại hàng ngày bạn cũng không thể có cách nào tiếp nhận nó được.
Tình trạng học văn hiện nay cũng vậy. Bên cạnh những bạn học rất tốt bộ môn này, thậm chí say mê thì cũng còn những bạn không thể học tốt được nó. Lí do để các bạn đưa ra là do văn dài, nhiều chữ khó thuộc khó vào….Vậy phải làm sao để học văn có hiệu quả? Học văn cũng cần phải có mẹo riêng, những kinh nghiệm riêng giống như bạn làm việc bất kì có kế hoạch sẽ thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Vậy kinh nghiệm để học văn là gì?
Đầu tiên là việc học trên lớp. Bạn cần phải tập trung cao độ cho những giờ học văn. Việc chuyên chú học tập sẽ khiến bạn tiếp thu bài giảng của giáo viên một cách tốt nhất. Bất cứ một môn học nào không kể là văn học thì việc bạn tập trung, lắng nghe sẽ mang lại nhiều kết quả tốt. Đặc biệt với những bạn không dành thời gian ở nhà cho môn học thì đây là cách học hiệu quả nhất.
Vì thế nên trong giờ học văn bạn không nên nói chuyện riêng hay làm việc riêng, hãy tập trung 100% tâm trí cho bài học của mình. Ngoài ra bạn cũng chú ý nên ghi chép đầy đủ. Nhiều bạn tự cho rằng chỉ cần lắng nghe bài truyền giảng của giáo viên là đủ và có thể ghi nhớ toàn bộ, tuy nhiên trí óc của con người không phải là một chiếc ổ cứng có thể lưu trữ bất cứ thứ gì vào đó. Sẽ có rất nhiều việc tác động khiến bạn phải để tâm vì thế thay vì chỉ biết lắng nghe bạn nên ghi chép thành một sơ đồ cây để học nhanh và hiệu quả hơn.
Hiện nay, để phục vụ nhu cầu học tập của học sinh có rất nhiều các loại sách văn học tham khảo ra đời có thể kể đến như: Văn mẫu các lớp, hướng dẫn soạn văn, giải bài tập văn… Để các bạn có thể tham khảo hướng giải bài nhanh và hiệu quả hơn.
Học văn không phải là việc quá khó khăn thậm chí nó còn trở nên vô cùng dễ dàng nếu chúng ta tìm được những điểm thú vị của nó, cũng như có một phương pháp học đúng cách hiệu quả. Văn học không chỉ mang đến cho con người những kiến thức bổ ích mà còn giúp chúng ta trau dồi lời lẽ, cách lập luận và phản biến một vấn đề một cách cặn kẽ và sâu sắc nhất có thể. Vì thế học sinh chúng ta cần phải trang bị cho mình những kinh nghiệm học văn thật tốt.
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 8Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 8
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 6Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 8Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 8
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa – thời kì mà con người như bị cuốn hút vào đồng tiền, cơn vũ bão của vật chất, văn chương, chữ nghĩa gần như trở thành một trang sức tầm thường, có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Hiếm người nhận thức được giá trí đích thực của việc học văn. Vậy thì, để nhận ra những giá trị của văn chương, cần có những phương pháp hiệu quả để tiếp cận, để học, để có những bài văn hay, thuyết phục những con người mù quáng đó.
Điều đầu tiên, chúng ta cần chọn thầy để học. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, chúng ta sẽ vẫn thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Hiện nay, tài liệu tham khảo tràn ngập thị trường, để mua được những cuốn sách tốt, chúng ta nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. Khi đọc tài liệu tham khảo, chúng ta không nên “bê” nguyên một bài viết của người khác vào làm bài của mình. Những người cầm bút nên nhớ không bao giờ được Đạo Văn. Đọc sách tham khảo không phải chỉ để chép mà còn để xem cách thức làm bài, triển khai vấn đề…
Thứ hai, để có thể hiểu được một tác phẩm văn học, chúng ta cần khám phá tác phẩm trong các mối liên hệ. Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn, nhưng cũng là con đẻ của hoàn cảnh lịch sử, thời đại và là nơi ghi dấu ấn tâm hồn, tư tưởng, tài năng của và tâm huyết của nhà văn trong một thời điểm nhất định. Muốn nắm bắt tác phẩm cần phải biết tác phẩm đó gắn liền với hoàn cảnh lịch sử nào. Khi tìm hiểu văn học cũng phải đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với giai đoạn văn học, trào lưu văn học, thời kì hoặc phương pháp sáng tác… Mỗi tác phẩm văn chương thường có hai phần nổi bật là nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Tìm hiểu nội dung là nhằm chỉ ra tư tưởng và quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống, tìm hiểu hình thức là chỉ ra tài năng nghệ thuật của nhà văn, cũng như sự thống nhất và phù hợp của hình thức với nội dung. Nên từ hình thức tìm ra nội dung và tránh diễn xuôi tác phẩm, văn thơ. “Mọi chân lí sẽ trở nên sai lầm, nếu chúng ta cứ xét đoán nó trên cơ sở của nhưng kinh nghiệm hằng ngày” (Ph.Angghen ). Thế giới hình tượng trong tác phẩm được xây dựng nên từ các chi tiết nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm phải luôn xuất phát từ chi tiết. Mỗi chi tiết trong tác phẩm là một ô cửa mở ra cả thế giới, bởi nó có khả năng sinh nở ra những ý nghĩa mới.
Nói chung, về văn xuôi, chúng ta nhất định phải nắm đc diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó.
Về thơ, cần phải nắm được cảm hứng chủ đạo của thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc.
Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong… Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Còn làm sao để có thể viết được một bài văn hay? Văn chương không phải là chuyện cứ làm cho câu cú cầu kỳ, chữ nghĩa đến một bay bổng, uốn éo là hay. Một câu văn hay là một câu văn đơn giản, khúc chiết, rõ ràng và đủ ý. Chỉ có những lúc khi tâm hồn thăng hoa thì văn chương sẽ đạt đến một mức độ thuần túy, thanh khiết, chứ không bao giờ “bay bổng”. Muốn diễn đạt đến mức tinh tế thì phải chuẩn xác ngôn ngữ. Đơn giản nhưng chính là cái phức tạp nhất. Bằng cách nào? Đọc nhiều sách, và một cách đơn giản và thiết thực hơn là có một cuốn từ điển Tiếng Việt. Trong số chúng ta, phần lớn ai cũng có những cuốn từ điển ngoại ngữ mà không hề xuất hiện một cuốn từ điển Tiếng Việt, kể cũng nực cười. Chúng ta chỉ nên đọc chứ không nên tra. Chỉ có những người không hiểu gì về văn học và việc làm văn mới cho là văn chương lai láng, mơ mộng, càng dài càng tốt, muốn viết thế nào thì tùy.
Văn học là một môn khoa học nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy, cần kết hợp tăng cường chất văn vừa tăng cường chính xác trong bài văn, nhất là tỏng việc trích dẫn kiến thức và dẫn chứng. Từ xưa, cụ Tú Xương đã dạy “Văn chương nào phải đơn thuốc / Chớ có khuyên xằng, chết bỏ bu.”
Khi viết văn, cần tuân thủ các nguyên tắc. Để đạt điểm cao, bài văn phải được trình bày sáng sủa, sạch đẹp. Vì vậy, trong quá trình triển khai ý làm bài, các em nên trình bày mỗi ý thành một đoạn văn, được phân biệt với dấu chấm xuống dòng. Cách trình bày như thế vừa giúp bài văn sạch đẹp hơn, gây thiện cảm đới với thầy cô giáo, các ý trong bài nổi bật hơn, thầy cô không thể bỏ sót ý, nên bài văn có lợi hơn về điểm số.
Diễn đạt là quá trình vô cùng quan trọng, sánh ngang với việt tìm ý cho bài văn. Không có ý, thì ko có gì để viết, nhưng có ý đầy trong đầu, mà không biết cách nói ra, thì ý dù hay, dù sâu sắc đến đâu cũng trở thành vô nghĩa. Cũng cần tránh trình trạng diễn đạt mập mờ, dễ gây hiểu nhầm cho người đoc. Vì vậy, chúng ta cần rèn luyện cho mình một cách diễn đạt đúng, nghĩa là nói và viết đúng ngữ pháp. Nếu chưa giỏi diễn đạt, hãy viết các câu văn ngắn, ít thành phần câu, tránh cầu kì, rườm rà và dễ bị mắc lỗi ngữ pháp. Và sau đó, khi đã tiến bộ, cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu, linh hoạt các hình ảnh, các phép tu từ, chuyển nghĩa để lời văn có cảm xúc và chất văn.
Giống như quá tình tư duy, quá trình nhận thức của con người, khi học và làm văn, cũng cần qua ba bước là “Hiểu – Nhớ – vận dụng”. Muốn nhớ được kiến thức thì trước hết phải hiểu nó. Muốn hiểu thì phải chịu khó tìm tòi, suy nghĩ. Học văn không phải là cắm đầu ghi cho đầy vở, mà là phải hiểu, nhớ và ghi lại các ý hay, quan trọng. Gặp những vấn đề chưa hiểu, chúng ta cứ mạnh dạn hỏi, chắc chắn không thầy cô giáo nào từ chối. Kiến thức càng sắp xếp khoa học, chặt chẽ, rành mạch bao nhiêu thì càng dễ nhớ bấy nhiêu. Để tránh học vẹt, khi học văn, chúng ta không nên cầm sách học thuộc lòng, mà nên học theo phương pháp tái hiện.
Sau giờ học trên lớp, hãy dành thời gian tĩnh tâm (khoảng 20- 30 phút) để nhớ lại kiến thức vừa học. Việc hệ thống kiến thức theo các bảng, theo mô hình nhánh cây… và việc liên hệ giữa văn học và cuộc sống cũng giúp chúng ta nhớ kiến thức lâu và sâu sắc.
Sau khi đã hiểu và nhớ, cần vận dụng lại bằng cách làm bài tập,.. Để dễ nhớ dẫn chứng và học văn đạt kết quả tốt, cần đọc tác phẩm. Ta nên đọc tác phẩm trước khi được học trên lớp, khi chưa hề nghe giảng. Điều này rất quan trọng, bởi những ấn tượng bạn đầu của các em khi tiếp xúc với tác phẩm sẽ được nhớ lâu và giúp định hướng tác phẩm.
Nhìn chung, để học văn đạt hịêu quả, chúng ta phải học văn bằng chính trái tim và cái đầu của mình, tự tìm một con đường riêng cho mình
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 6Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 6
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 7Thực ra tự học không chỉ đối với môn văn mà tất cả các môn học hay những thứ cần học đều rất cần thiết và tốt. Tự học giúp chúng ta chủ động trong việc chiếm lĩnh, ghi nhớ kiến thức hơn gấp nhiều lần so với cách học khác. Người có khả năng tự học sẽ gia tăng nhu cầu và xác định được tốt hơn mục đích học so với người khác. Hẳn rất nhiều người vẫn nhớ các nhà khoa học nổi tiếng thế giới như Anh-xtanh, Niu-tơn,… hay những tỉ phú, những tài năng thế giới như Bill Gates, Steve Jobs,… đều thành danh bởi họ có năng lực tự học. Vậy tự học môn văn sẽ như thế nào?
Tự học đối với môn văn không quá khó như các bạn tưởng tượng. Trước hết bạn cần xác định mục đích tự học môn văn để làm gì? Bạn cần tự học những cái gì? Bạn tự học vào những thời gian nào? Trước khi bạn tiến hành học cụ thể cần phải xác định được những yếu tố đó trước, vì đây là mục tiêu bạn cần đặt ra trong quá trình tự học. Đối với môn văn, đa số các bạn học sinh xác định học văn là để đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra, trong các kì thi, số còn lại yêu thích môn văn thực sự thì mục đích không phải chỉ là kết quả. Nhưng dù là mục đích gì thì khi học văn đều cần xác định các vấn đề bạn cần học. Đối với môn văn có hai vấn đề cần học đó là kiến thức văn học và kĩ năng viết bài văn. Khi đã xác định được mục đích và nội dung học, bạn sẽ cố gắng sắp xếp thời gian sao cho hợp lí để đáp ứng được điều đó.
Đầu tiên bạn phải tự học kiến thức môn văn trước. Việc tự tìm hiểu kiến thức môn văn thông qua nhiều nguồn mà có thể tổng hợp. Đầu tiên, bạn cần khai thác kĩ trong sách giáo khoa. Bao giờ trong sách giáo khoa cũng có hai phần bạn nên chú ý, đó là mục Kết quả cần đạt và Ghi nhớ. Ở đây bạn sẽ xác định được kiến thức trọng tâm bạn cần học là gì. Dựa vào đó bạn sẽ xây dựng kiến thức trọng tâm của bài học, kết hợp với phần giảng và cho ghi của thầy cô ở trên lớp để hoàn thiện. Khi đã xác định đầy đủ kiến thức cơ bản, sử dụng các câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức, bạn tiến hành tìm hiểu các tài liệu bên ngoài. Sách tham khảo, internet là lựa chọn tiếp theo của bạn. Hiện nay có một thực trạng là có quá nhiều sách tham khảo, quá nhiều trang điện tử về môn văn, mà rất khó kiểm soát được.
Có được kiến thức với việc viết được bài văn là hai điều hoàn toàn khác nhau. Tiêu chí đánh giá một học sinh học văn tốt hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên kết quả bài làm. Nhưng trên lớp những giờ học làm văn thời lượng ít, mà chỉ vận dụng được phần nào đó để viết văn. Trong khi đó số lượng bài viết trong một năm chỉ có 7 bài, trong đó bao gồm cả 2 bài học kỳ. Vậy việc viết văn và được các thầy cô chấm và chữa cho là khá ít. Chưa kể có thầy cô chậm trả bài, trả bài qua loa, lời phê ít. Nên nhiều bạn học sinh chưa thể tự mình rút ra được những sai sót lần sau khắc phục được. Vậy chỉ có cách tự học rèn kĩ năng viết văn mới có thể khắc phục được.
Việc rèn kĩ năng viết đòi hỏi đầu tiên là phải chăm chỉ. Nhiều người nói rằng văn học là một bộ môn nghệ thuật, nên viết được văn phải có năng khiếu. Đúng là như thế, nhưng nếu bạn học văn để có điểm tốt thì đó không phải là yếu tố quyết định. Bên cạnh đó, khi luyện tập viết văn cũng như học kiến thức, bạn phải xác định viết một bài văn là viết những gì? Trước tiên là phải nắm được dạng đề, bởi một dạng đề có cách triển khai khác nhau. Hiện nay đa số các bạn sẽ học và thi ở dạng văn nghị luận, nên sẽ chú tâm vào dạng văn này. Bạn tìm hiểu thật kĩ các kiểu văn nghị luận, bố cục, dàn ý bài văn nghị luận, các thao tác nghị luận, lập luận… Sau đó, bạn tìm cách đọc những bài văn mẫu. Việc đọc văn mẫu giúp ích cho bạn rất nhiều trong cách triển khai, tổ chức bố cục, diễn đạt, hành văn trong bài viết. Tiếp tục là bạn phải tự mình tập viết những đoạn văn ngắn, những bài văn nhỏ. Có một lưu ý là khi mới tập không được viết cái gì quá lớn, quà dài sẽ dễ gây tâm lý chán nản. Khi tập bạn nên bắt đầu bằng những cái dễ, sau đó mới đến những cái khó.
Việc học kĩ năng viết bài văn rất khó khăn, nhiều bạn chán nản và bỏ cuộc. Vậy các bạn có thể tham khảo ở một hình thức đó là “30 phút mỗi ngày”. Tức là mỗi ngày bạn dành ra 30 phút, ban đầu bạn viết cái gì cũng được, những hãy viết những thứ có mục đích, chứ không viết lung tung. Việc này thực hiện rất dễ, vì nhiều bạn sử dụng luôn việc đăng trạng thái lên facebook cá nhân để rèn luyện cũng là một cách. Sau đó bạn hãy ứng dụng vào việc viết văn. Cũng chỉ mỗi ngày 30 phút về một vấn đề văn học nào đó. Dần dần bạn viết vào những vấn đề trọng tâm của bài học hơn, rồi rèn kĩ năng viết nhanh, viết nhiều hơn… Bạn thử nghiêm túc thực hiện, sau một tháng chắc chắn kĩ năng viết văn của bạn sẽ tốt lên đáng kể.
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 5Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 7Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 7
Có thể thấy được hiện nay thì hiện tượng rất nhiều học sinh ngại học văn vì cho rằng đây là môn học khó và khổ. Và một trong những nguyên nhân là do các bạn chưa tự rút ra cho mình những kinh nghiệm cần thiết cho môn học của mình. Hãy luôn nắm các tác phẩm theo đặc trưng thể loại cũng chính là một kinh nghiệm hay giúp các bạn có thể chiếm lĩnh được các môn học này ngày càng tốt hơn.
Thực tế thì mỗi một nhà văn trong sáng tác đều tuân theo lí thuyết về đặc trưng thể loại. Chúng ta cũng thấy có đến 3 phương thức sáng tác: tự sự, trữ tình, kịch. Mỗi phương thức có cách chiếm lĩnh đời sống và phương tiện nghệ thuật riêng biệt. Đặc biệt khi học bài trên lớp hay trong quá trình dạy, người giáo viên đều hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo đặc trưng thể loại của tác phẩm. Ví dụ khi tìm hiểu tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng thì thầy cô giáo cũng sẽ hướng dẫn chúng ta tìm hiểu từ tình huống truyện, nhân vật, ngôn ngữ…
Thế rồi chính với việc soạn bài, tìm hiểu tác phẩm trước ở nhà cũng trên cơ sở các câu hỏi về đặc trưng thể loại đó. Khi soạn truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”. Người học sinh cũng sẽ được hướng dẫn soạn từ kịch tính của màn kịch, từ nghệ thuật gây cười mà suy ra tính cách nhân vật. Đồng thời cũng phải biết nắm được nội dung tác phẩm theo những đặc trưng thể loại là dựa vào thể loại để tìm hiểu tác phẩm. Từ đó cũng có thể làm định hướng cho việc tìm ý và làm văn (thuyết minh, nghị luận, biểu cảm.
Để có thể làm được điều đó thì trước hết ta phải nắm chắc kiến thức về thể loại tác phẩm. Nhất là khi học phần văn học dân gian ở học kì I, ta phải nắm được thế nào là sử thi, thế nào là ca dao, thế nào là truyện cười… Khi học phần văn học trung đại, phải nắm được thế nào là phú, thế nào là hịch, cáo, chiếu, biểu.
Bước tiếp theo cũng nên căn cứ vào đặc trưng thể loại, ta sẽ tìm hiểu nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Rồi từ đó vận dụng vào làm văn.
Cho đến bước cuối cùng, mô hình hóa cách nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại thành đề cương ôn tập để làm tư liệu vận dụng ôn thi hay làm văn. Ví dụng khi ôn tập, chúng ta sẽ phân loại tác phẩm theo thể loại (tự sự, trữ tình) để ôn. Ở các tác phẩm truyện, cần nắm được hình tượng thơ, tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu… Đừng quên bước đánh giá, kinh nghiệm nắm bắt tác phẩm theo chính đặc trưng thể loại cũng sẽ giúp cho chúng ta để phát huy được tính tích cực, tính của động của mình trong việc học. Thêm với đó là thúc đẩy quá trình tự học, đồng thời cũng tự lĩnh hội kiến thức đồng thời làm chủ kiến thức với chiếc chía khóa hữu hiệu này trong tay.
Các em hãy học thật thực sự nghiêm túc và chính ngôn Ngữ văn là bộ môn có tính nghệ thuật kết hợp với tính khoa học cao. Đồng thời cũng sẽ nhận được kinh nghiệm học văn và làm văn tốt sẽ giúp cho chúng ta khám phá được những bí ẩn của văn chương.
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 3Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 5Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 5
M.Gorki nói “Văn học là nhân học”, khẳng định vai trò và ý nghĩa to lớn của môn học này. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, có rất nhiều người bỏ mặc môn học này, một số khác thì buông xuôi. Nguyên nhân xuất phát từ việc các bạn chưa tìm được một phương pháp học văn hiệu quả cho bản thân. Phương pháp học giữ vai trò vô cùng quan trọng. Phương pháp học “Hiểu tác phẩm” là một trong những kinh nghiệm học hiệu quả của nhiều thế hệ học sinh.
Vì sao phải học hiểu? Bất kỳ tác phẩm nào cũng có giá trị của nó, đặc biệt các tác phẩm văn học lại là thành quả sáng tạo bằng cả trí tuệ và tâm hồn tác giả. Học hiểu trước tiên để nắm được những nội dung cơ bản nhất, khi đã hiểu rồi bản thân mới có hứng thú tìm hiểu nhiều hơn, hiểu nhiều hơn.
Một tác phẩm văn học không chỉ chứa đựng nội dung mà còn có giá trị nghệ thuật. Trước tiên, để có thể làm được những đề văn, lý giải được những vấn đề về tác phẩm đó ta phải học hiểu nội dung của nó. Nội dung của tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là một hệ thống gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào nhau. Nội dung được thể hiện qua hình thức của tác phẩm bao gồm hoàn cảnh ra đời, nhân vật, cốt truyện đối với truyện, chủ thể trữ tình, tình cảm thể hiện, và thể thơ đối với thơ bà tương tự với những thể loại văn học khác tùy theo đặc trưng từng thể loại. Bước đầu tiên trong việc học hiểu nội dung chính là đọc tác phẩm nghiêm túc. Trong quá trình đọc, bạn có thể gạch chân khoanh tròn những từ ngữ, chi tiết ấn tượng. Đối với thơ, nên thuộc, đối với truyện, nên nhớ. Thuộc thơ nhớ truyện là một trong những yêu cầu cơ bản của tất cả giáo viên dạy văn. Khi thuộc thơ, nhớ truyện rồi trong đầu đã cơ bản ghi nhớ những nội dung của tác phẩm. Không những thế bản thân còn đặc biệt ghi nhớ những chi tiết gây ấn tượng. Những chi tiết ấy khi tiến hành làm bài, bạn có thể phân tích sâu sắc hơn theo phong cách của mình, từ đó lưu lại đặc trưng riêng trong cách viết.
Hiểu được một tác phẩm văn học không phải dễ dàng nhưng không phải quá khó khăn. Hãy mạnh dạn hỏi những người thầy, người cô, những người bạn có thể giảng giải cho mình phần khó hiểu, mạnh dạn bày tỏ cảm nhận của bản thân để cùng giao lưu với mọi người về những tác phẩm văn học để từ đó hiểu được đầy đủ và sâu sắc hơn. Hiểu được tác phẩm, khi làm đề văn, khi học, tất cả mọi thứ đều sáng tỏ. Khi ấy, chỉ cần bình tĩnh nhớ lại, vấn đề sẽ nhanh chóng được giải quyết. Lấy ví dụ như “Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chiếc lược ngà”. Khi đã hiểu tác phẩm bạn sẽ ngay lập tức gạch được ý đây là vấn đề về nội dung tác phẩm, đó là sự trân trọng ngợi ca tình cảm gia đình, sự lên án chiến tranh đã gây ra bao tổn thương và nội dung ấy được tác giả thể hiện qua ai, qua những ngôn từ, chi tiết như thế nào?
Văn học luôn đem đến những giá trị chân thực mà bất cứ ai hiểu được sẽ cảm thấy xứng đáng. Học hiểu tác phẩm là một kinh nghiệm học văn có hiệu quả, kết hợp với phương pháp học và làm khác, bạn nhất định có thể thành công tiếp thu cho mình nhiều hơn những giá trị văn học.
Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 2Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 3Bài văn thuyết minh về cách học văn hiệu quả số 3
Văn chương là một thế giới rộng lớn và bao la, không ai có thể dùng đôi ba định nghĩa trừu tượng để phác họa nên dáng hình cho nó, chỉ có cách học thật nhiều, độc thật nhiều, viết thật nhiều và nghĩ thật nhiều thì may rằng chúng ta mới có thể phần nào nắm được một góc nhỏ trong cái bóng rộng lớn của nền văn học đồ sộ và phong phú. Dầu rằng văn chương là một lĩnh vực hấp dẫn và thú vị thế nhưng ta vẫn thấy một một điều rằng không có nhiều học sinh có hứng thú với việc học văn, làm văn, các em không thích sáng tạo, không thích tìm tòi và lý luận bởi cho rằng chúng quá khó để lô-gic và phải học thuộc quá nhiều. Sở dĩ nhiều học sinh có suy nghĩ như vậy là bởi các em còn chưa nhận định được đúng vai trò và vị trí của văn chương trong cuộc sống, hai nữa là đa số các em học sinh vẫn còn bị rập khuôn bởi cách học truyền thống thiếu sự sáng tạo và không bài bản. Để khắc phục điều đó tôi muốn giới thiệu đến các bạn một vài kinh nghiệm của bản thân trong quá trình học văn để các bạn và các em có thể cùng tham khảo.
Tôi phải công nhận rằng môn Ngữ văn là cả một thử thách đối với nhiều học sinh, bởi nó không phải là một cái gì rõ ràng giống như các môn học khác, nó vừa yêu cầu sự nắm bắt nội dung một cách chuẩn xác, lại vừa yêu cầu người học phải có sự sáng tạo, tìm tòi. Vậy nên trước hết mỗi chúng ta cần nắm vững được kiến thức nền tảng trong sách giáo khoa, dĩ nhiên rằng để học thuộc hết tất cả các tác phẩm thì khá khó, thế nhưng cũng không phải là điều gì bất khả thi. Chúng ta nên sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức về tác giả, tác phẩm, nội dung chính và nghệ thuật, cũng như những nhận định hay về tác phẩm vào trong một mặt giấy duy nhất. Nếu như bạn có khả năng thẩm mỹ, hội họa cao thì tốt hơn hết là nên trang trí hoặc đánh dấu sao đó cho các mục chính trở nên ấn tượng và dễ dàng ghi nhớ, hoặc không thì các bạn cứ sơ đồ hóa đơn giản miễn sao đầy đủ những kiến thức cơ bản là tốt rồi.
Đó là kỹ năng đọc, hiểu, một kỹ năng nữa được xem là kỹ năng quyết định đến 90% kết học học văn của chúng ta ấy là kỹ năng viết, tôi cũng thú thực rằng không phải ai cũng có thể viết được một bài văn hay có cảm xúc, bởi chúng ta là những có thể riêng biệt việc “cảm” được tác phẩm – vốn là giá trị tinh thần của một ai đó là điều không hề dễ dàng, dù cho phần nội dung đã được giáo viên hướng dẫn kỹ càng ở trên lớp. Học sinh chúng ta hay mắc phải hai chướng ngại đó là không nhớ kiến thức và không biết cách hành văn sao cho mạch lạc và liên kết. Để giải quyết vấn đề này ngoài phương pháp sơ đồ tư duy tôi đưa ra thì tôi kiến nghị các bạn nên tham khảo cả những dàn ý mẫu trong sách vở hoặc trên mạng, rồi tự lập ra cho mình một dàn ý chi tiết hoàn chỉnh. Việc tự lập dàn ý khiến bạn nhớ nội dung bài cũng như khung xương cơ bản của một bài văn như, như vậy dù cho khi làm bài thi bạn viết có trúc trắc, thế những đủ nội dung thì vẫn có điểm khá. Thứ hai là cách giải quyết vấn đề về lối hành văn, cái này thực tế nó thuộc phạm trù cá nhân của mỗi người, dựa trên tính cách và EQ – chỉ số cảm xúc, tuy nhiên vẫn có thể cải thiện được nhờ vào việc cải thiện kỹ năng đọc như tôi đã nói ở trên.
Ngoài ra chúng ta cũng cần luyện cho mình được sự tư duy nhanh, khả năng liên kết vấn đề và sự xúc tích khi viết văn, một vấn đề không nên viết quá lan man, lạc đề, cũng không nên quá ngắn gọn. Tôi khuyến nghị rằng khi viết ngoài việc để ý đến cảm nhận và ngụ ý của tác giả thì ta cũng nên thêm vào đó một chút cảm nhận cá nhân, như một lời bình, một lời nhận xét của các tác giả khác, hoặc một cảm xúc mà ta thấy phù hợp, như vậy mạch văn sẽ trở nên mềm mại hơn. Việc chuyển tiếp giữa các ý trong viết văn cũng rất quan trọng, chúng ta không nên mắc lỗi lặp từ là thứ nhất, thứ hai giữa các đoạn các câu nên có một liên từ phù hợp, cái này thì tự mỗi cá nhân phải trau dồi vốn từ thêm cho mình. Cuối cùng tôi muốn nói rằng chúng ta không nên sao chép bài của người khác, cũng không nên rập khuôn theo một hình thức sáo mòn, bởi như vậy đã làm mất đi cái hay ở văn chương đó là sự sáng tạo của cảm xúc, của tâm hồn, chúng ta chỉ nên tham khảo và chiêm nghiệm là đủ, còn viết riêng cho mình một bài văn mang dấu ấn cá nhân. Chỉ có tập viết nhiều, viết quen thì tư duy của chúng ta mới có thể phát triển được.
Cuối cùng để học văn tốt, chúng ta không chỉ đi vòng ngoài nắm những cái cơ bản mà chúng ta còn cần nắm rõ được cả bề sâu, có như thế thì văn chương trong ta mới trở nên mới mẻ và thú vị. Tôi muốn nói đến việc tìm hiểu phong cách sáng tác và khuynh hướng nghệ thuật của các nhà văn, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng có một nhận định rất hay về phong cách làm nghệ thuật cũng như sáng tác văn chương “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình”. Đúng vậy mỗi một tác giả lại có phong thái sáng tác cho riêng mình, nếu như chúng ta nắm rõ về tác giả thì việc triển khai và hiểu sâu sắc về tác phẩm trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn rất nhiều, điều này đặc biệt có lợi trong lúc chúng ta viết phần mở bài giới thiệu về tác phẩm, vốn là phần khó nhất trong việc học và làm văn, và cũng quyết định xem bài văn của chúng ta có thể gây ấn tượng cho người đọc hay không, theo tôi là vậy. Vậy ta tìm hiểu gì ở tác giả, chúng ta nên tìm hiểu về hoàn cảnh xuất thân, cuộc đời và những thứ có ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác, phong cách hành văn, giọng văn, giọng thơ, bối cảnh thời đại, cũng như một số quan niệm của tác giả về văn chương. Việc tìm hiểu nói ra thì có vẻ phức tạp và rối rắm nhưng thực tế rằng nó đã nằm hết ở trong sách giáo khoa chúng ta chỉ cần bỏ chút thời gian để đọc và chép lại những ý hay, còn nếu bạn muốn tìm hiểu thêm thì ở trên mạng có rất nhiều để chúng ta có thể thoải mái tham khảo.
Môn Ngữ văn từ xưa tới nay vẫn luôn bị quy chụp cho cái mũ là khó với cần nhiều năng khiếu đó quả là hơi oan, bởi chỉ cần học đúng phương pháp thì môn học nào cũng đều trở nên dễ dàng. Cái đầu tiên vẫn là biết khơi gợi lên hứng thú, không chịu bỏ cuộc dễ dàng rồi thì con đường nào dù gian khó cũng sẽ trở thành bằng phẳng các bạn ạ. Lấy ví dụ cá nhân tôi, lúc đầu cũng không mấy hứng thú với văn học thế nhưng cho đến ngày hôm nay, viết văn hay đọc sách lại đã trở thành niềm yêu thích trong cuộc sống.
Đăng bởi: Bách Hóa Nông Nghiệp
Từ khoá: 8 Bài văn thuyết minh hay nhất về cách học văn hiệu quả
Thuyết Minh Về Đồng Tháp ❤️️15 Bài Giới Thiệu Đồng Tháp Hay
Thuyết Minh Về Đồng Tháp ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Đồng Tháp Hay ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Viết Về Cảnh Đẹp Mộc Mạc Của Vùng Đất Đậm Chất Nam Bộ.
Giới Thiệu Về Đồng Tháp Hay Nhất được chúng tôi chọn lọc và chia sẻ rộng rãi đến bạn đọc sau đây.
Đồng Tháp là một trong 13 tỉnh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và là tỉnh duy nhất có địa bàn ở cả hai bờ sông Tiền. Lãnh thổ của tỉnh Đồng Tháp nằm trong giới hạn tọa độ 10°07’ – 10°58’ vĩ độ Bắc và 105°12’ – 105°56’ kinh độ Đông. Tỉnh có vị trí địa lý:
Phía đông giáp với tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang, phía tây giáp tỉnh An Giang, phía nam giáp với tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ, phía bắc giáp tỉnh Prey Veng của Campuchia và tỉnh Long An.
Tỉnh Đồng Tháp có đường biên giới quốc gia giáp với Campuchia với chiều dài khoảng 50 km từ Hồng Ngự đến Tân Hồng, với 4 cửa khẩu là Thông Bình, Dinh Bà, Mỹ Cân và Thường Phước. Hệ thống đường Quốc lộ 30, 80, 54 cùng với Quốc lộ N1, N2 gắn kết Đồng Tháp với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực.
Địa hình Đồng Tháp tương đối bằng phẳng với độ cao phổ biến 1–2 mét so với mặt biển. Địa hình được chia thành 2 vùng lớn là vùng phía bắc sông Tiền và vùng phía nam sông Tiền. Đồng Tháp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, đồng nhất trên địa giới toàn tỉnh, khí hậu ở đây được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
Trong đó, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm trung bình năm là 82,5%, số giờ nắng trung bình 6,8 giờ/ngày. Lượng mưa trung bình từ 1.170 – 1.520 mm, tập trung vào mùa mưa, chiếm 90 – 95% lượng mưa cả năm. Những đặc điểm về khí hậu như trên tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp toàn diện.
Đất đai của Đồng Tháp có kết cấu mặt bằng kém bền vững lại tương đối thấp, nên làm mặt bằng xây dựng đòi hỏi kinh phí cao, nhưng rất phù hợp cho sản xuất lượng thực.
Đất đai tại tỉnh Đồng Tháp có thể chia làm 4 nhóm đất chính là nhóm đất phù sa (chiếm 59,06% diện tích đất tự nhiên), nhóm đất phèn (chiếm 25,99% diện tích tự nhiên), đất xám (chiếm 8,67% diện tích tự nhiên), nhóm đất cát (chiếm 0,04% diện tích tự nhiên). Nguồn rừng tại Đồng Tháp chỉ còn quy mô nhỏ, diện tích rừng tràm còn dưới 10.000 ha. Động vật, thực vật rừng rất đa dạng có rắn, rùa, cá, tôm, trăn, cò, cồng cộc, đặc biệt là sếu cổ trụi.
Đồng Tháp là tỉnh rất nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu có: Cát xây dựng các loại, phân bố ở ven sông, cồn hoặc các cù lao, là mặt hàng chiến lược của tỉnh trong xây dựng. Sét gạch ngói có trong phù sa cổ, trầm tích biển, trầm tích sông, trầm tích đầm lầy, phân bố rộng khắp trên địa bàn tỉnh với trữ lượng lớn. Sét cao lanh có nguồn trầm tích sông, phân bố ở các huyện phía bắc tỉnh. Than bùn có nguồn gốc trầm tích từ thế kỷ thứ IV, phân bố ở huyện Tam Nông, Tháp Mười với trữ lượng khoảng 2 triệu m3.
Đồng Tháp Mười ở đầu nguồn sông Cửu Long, có nguồn nước mặt khá dồi dào, nguồn nước ngọt quanh năm không bị nhiễm mặn. Ngoài ra còn có hai nhánh sông Sở Hạ và sông Sở Thượng bắt nguồn từ Campuchia đổ ra sông Tiền ở Hồng Ngự. Phía nam còn có sông Cái Tàu Hạ, Cái Tàu Thượng, sông Sa Đéc… hệ thống kênh rạch chằng chịt. Đồng Tháp có nhiều vỉa nước ngầm ở các độ sâu khác nhau, nguồn này hết sức dồi dào, mới chỉ khai thác, sử dụng phục vụ sinh hoạt đô thị và nông thôn, chưa đưa vào dùng cho công nghiệp.
SCR.VN tặng bạn 💧 Giới Thiệu Về Một Danh Lam Thắng Cảnh 💧 17 Bài Văn Hay
Cùng đón đọc bài văn thuyết minh Giới Thiệu Về Du Lịch Đồng Tháp để có thêm nhiều kiến thức hay để khám phá vùng đất này.
Đồng Tháp nổi tiếng với những ao sen hoa tỏa hương thơm ngát, những cánh rừng tràm bạt ngàn,hay vẻ đẹp thơ mộng của vườn hoa Sa Đéc, cùng những cánh đồng lúa bạt ngàn cò bay thẳng cánh đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long miệt vườn mộc mạc.
Đến với Đồng Tháp, du khách không chỉ có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những con kênh hiền hòa, những cánh đồng bạt ngàn lúa và hồ sen thơm mát mà còn được thưởng thức vô vàn các món ăn ngon đặc sắc của miền tây sông nước. Vùng Đồng Tháp là nơi lý tưởng cho những ai muốn trốn khỏi phố thị xô bồ và thưởng ngoạn khung cảnh thanh bình với đời sống thôn quê dân dã.
Sở hữu những con kênh hiền hòa, những cánh đồng bạt ngàn, hồ sen thơm ngát biến chuyển theo từng nhịp của thời gian nên Đồng Tháp mùa nào cũng đẹp. Khí hậu nơi đây ôn hòa quanh năm, không có gió bão lớn hay nắng gắt kéo dài nên khá thuận tiện cho việc tham quan, khám phá của du khách khi du lịch Đồng Tháp.
Thời điểm đẹp nhất đến xứ sen hồng này là vào dịp gần Tết Nguyên Đán để cảm nhận sắc màu rực rỡ của những vườn hoa Sa Đéc hoặc vào mùa nước nổi (từ tháng 7 đến tháng 8 âm lịch) để thưởng thức đặc sản, chiêm ngưỡng cảnh từng đàn cò kéo nhau về tổ khi chiều tà…
Vùng đất Đồng Tháp Mười ngày xưa nổi tiếng hoang vu với lắm bưng, trần, đìa, bàu, với bạt ngàn đưng, lác, năng, sen, súng và lau, sậy,..; là giang sơn của các loài động vật hoang dại như: rắn, rùa, chuột ếch, chim muông, cua, cá sấu.
Ngày nay đến với Đồng Tháp, du khách như trở về với cội nguồn thiên nhiên bởi bầu không khí trong lành, mát mẻ của những cánh đồng lúa phì nhiêu, và vô số những danh lam thắng cảnh nổi tiếng khắp vùng.
Đến Đồng Tháp bạn không nên bỏ lỡ những điểm du lịch sau: khu di tích cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, đài liệt sĩ, khu di tích Gò Tháp, di tích kiến trúc cổ Kiến An Cung, vườn quốc gia tràm chim Tam Nông, khu căn cứ Xẻo Quít, làng hoa kiểng Sa Đéc, các vườn cây ăn trái Cao Lãnh, Châu Thành, Lai Vung, Thạnh Hưng, các ngôi nhà Cổ đặc trưng miền tây …
Đồng Sen Tháp Mười: Nằm tại xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, cách thành phố Cao Lãnh 40 km, Đồng sen Tháp Mười sự lựa chọn thích hợp cho những người muốn tìm đến không gian thoáng đãng, mang phong vị đồng quê. Đến đây, du khách có dịp tận hưởng bầu không khí vô cùng êm dịu của những cánh đồng sen bao la. Không chỉ thế, bạn còn được thưởng thức các món ăn đậm đà hương vị địa phương như chè sen, xôi sen, gỏi gà ngó sen, cá lóc nướng lá sen…
Vườn quốc gia Tràm Chim: Cánh rừng tràm ngút ngàn tầm mắt, những đồng cỏ xanh mướt giữa mênh mông sông nước, những đàn chim chao nghiêng trên mặt hồ hay vẻ đẹp kiêu kỳ của Sếu Đầu Đỏ là những ấn tượng khó phai trong lòng du khách khi đến thăm Vườn Quốc Gia Tràm Chim (Đồng Tháp).
Làng hoa Sa Đéc nằm ở thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp tại bờ Nam sông Tiền. Tương truyền, ngày xưa có nàng Psardek, con gái chúa đất họ Thạc, đã phải lòng một chàng trai nghèo. Phản đối mối tình này, cha nàng đã sai người trói chàng trai lại và thả trôi sông. Nàng Psardek buồn tình nên đã đi tu. Về sau, khi cha mất, nàng dùng tài sản của gia đình để làm việc từ thiện, tu bổ đường xá, xây cất chợ búa. Từ đó người ta gọi chợ và vùng này là Psardek. Lâu ngày đọc trại thành Sa Đéc.
Chia Sẻ Bài 🌹Thuyết Minh Về Đà Nẵng ❤️️15 Bài Giới Thiệu Đà Nẵng Hay
Chia sẻ đến bạn đọc bài văn hay thuyết minh Giới Thiệu Về Quê Hương Đồng Tháp – vùng đất mộc mạc đậm chất Nam Bộ.
Đồng Tháp không chỉ nổi tiếng với những giá trị văn hóa đặc sắc mà còn là điểm đến du lịch hấp dẫn, được nhiều du khách lựa chọn. Thuộc khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng Tháp không chỉ nổi tiếng với những giá trị văn hóa đặc sắc mà còn là điểm đến du lịch hấp dẫn, được nhiều du khách lựa chọn.
Không ồn ào, nhộn nhịp, đến Đồng Tháp, ấn tượng đầu tiên của mỗi du khách chính là vẻ đẹp bình yên, giản dị cùng những khung cảnh miền quê thân thuộc mà đẹp đến nao lòng. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, du lịch đã được đầu tư và trở thành một trong những ngành mũi nhọn của tỉnh, góp phần tạo dựng nên hình ảnh và thương hiệu Đồng Tháp.
Thiên nhiên Đồng Tháp được ưu ái với rất nhiều thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái. Những ruộng lúa phì nhiêu, cánh đồng sen thơm ngát hay những cánh rừng tràm rộng lớn, những vườn cây trái sai trĩu cành,…đã trở thành những hình ảnh rất đỗi quen thuộc tại nơi đây.
Đời sống văn hóa dân gian của người dân Đồng Tháp cũng phát triển phong phú, đa dạng. Trong di sản văn hoá truyền thống có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh đang được gìn giữ, bảo tồn và từng bước phát huy vai trò phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội.
Cùng với đó, các loại hình nghệ thuật dân gian cũng được đẩy mạnh. Các câu hò, điệu lý và nổi bật nhất là nghệ thuật đờn ca tài tử… đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Đồng Tháp.
Ngoài ra, Đồng Tháp cũng có khá nhiều lễ hội truyền thống nổi tiếng, nổi bật có thể kể tới như: lễ hội Gò Tháp, lễ hội Vía bà chúa Xứ…Hiện nay, những kho tàng di tích và lễ hội vẫn đang được tỉnh Đồng Tháp đẩy mạnh khai thác để tạo thêm sức hút du lịch cho địa phương.
Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Cần Thơ ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Cần Thơ Hay
Thuyết Minh Về Quê Hương Đồng Tháp – Đồng Sen Tháp Mười một điểm đến nổi tiếng khi nhắc về vùng đất này.
Không có núi non hùng vĩ, cũng chẳng có những thắng cảnh rợn ngợp, Đồng Tháp khiến những ai đã từng một lần đặt chân đến đều phải nhớ thương về vẻ đẹp bình yên, mộc mạc đậm chất Nam bộ của những cánh đồng lúa phì nhiêu, những chiếc xuồng ba lá cùng tiếng chim líu lo vang trên sông rạch…
Đồng Tháp được biết đến là một tỉnh của miền Tây Nam bộ, với nhiều cảnh quan cùng những đặc sản mà không phải nơi nào cũng có. Về với Đồng Tháp, chúng ta sẽ được tận mắt thấy những cánh đồng lúa chìm trong bể nước mênh mông, những hồ sen thơm ngát đủ sắc màu, được nghe tiếng chim hót ríu ran, được đắm mình trong không gian hương tràm cùng với những món ăn đặc sản vùng sông nước.
Đồng sen Tháp Mười thuộc xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười (Đồng Tháp) cách TP.Tân An (Long An) hơn 70km. Chỉ hơn 1,5 giờ đi xe máy theo Quốc lộ 62, du khách có thể tận hưởng chuyến đi cuối tuần thú vị bên gia đình, bạn bè.
Với diện tích gần 20ha, không có xe cộ đông đúc, khói bụi, không có sự chen lấn, ồn ào thường thấy tại các địa điểm du lịch, đồng sen Tháp Mười yên bình, gần gũi đến lạ kỳ! Những cánh đồng sen xanh mát xen lẫn những đóa sen hồng lay nhẹ theo cơn gió làm say lòng du khách đến miền thôn dã.
Khách đến thăm có thể đi xuồng di chuyển sâu vào bên trong, vừa ngắm cảnh đồng quê, vừa cảm nhận sự gần gũi, yên bình từ thiên nhiên. Hít căng lồng ngực không khí trong lành, mát mẻ của buổi sớm, khẽ chạm vào từng chiếc lá, từng bông hoa, đưa tay khoát nhẹ dòng nước mát lành.
Đồng sen đẹp nhất là vào mùa Hè, khi sen nở rộ, bông này chen lấy bông kia vươn lên đón nắng. Để du khách hóa thân thành những cô thôn nữ, những chàng trai miệt vườn khi về với đồng sen, khu du lịch còn có dịch vụ cho thuê trang phục áo bà ba, áo dài… Đây cũng là địa điểm lý tưởng cho những cặp đôi lựa chọn chụp ảnh cưới. Ngoài ra, mọi người cũng có thể trải nghiệm một ngày làm nông dân “thứ thiệt” khi tự mình chống xuồng hái sen, câu cá.
Để tạo không gian dừng chân, nghỉ ngơi cho du khách, người ta xây những chòi lá và tại những chòi lá này, mọi người có thể thưởng thức các món đặc sản địa phương, trong đó tất nhiên không thể thiếu sự góp mặt của sen. Nào cá lóc nướng cuốn lá sen non, nào gỏi gà ngó sen, xôi sen, chè sen… Đặc biệt, đến đồng sen vào mùa lũ, du khách còn được ăn cá linh, bông điên điển, chuột đồng nướng, chuột rô ti… Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ làm ngày vui thêm trọn vẹn.
Gợi Ý Bài 🌹 Thuyết Minh Về Cao Bằng ❤️️15 Bài Giới Thiệu Cao Bằng Hay
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Đồng Tháp Đặc Sắc là tài liệu tham khảo hữu ích để các em ôn tập hiệu quả.
Về Đồng Tháp để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên sông nước hữu tình, những cánh đồng lúa phì nhiêu, những chiếc xuồng ba lá cùng tiếng chim râm ran trên sông rạch.
Đồng Tháp không có núi non hùng vĩ, cũng chẳng có những thắng cảnh rợn ngợp nhưng khiến những ai đã từng một lần đặt chân đến đây đều phải lưu luyến và đắm say. Mảnh đất Đồng Tháp với nền văn hóa độc đáo, hình ảnh về Sen biểu tượng của nơi đây đã bao đời nay in dấu một sức sống mãnh liệt mang vẻ đẹp mộc mạc, chân chất giống như tính cách con người Nam Bộ vậy.
Tình người trên đất Sen Hồng lúc nào cũng bao la, chân thành, da diết. Họ sống giản dị, cho dù đã trãi qua bao nhiêu khó khăn, vất vả để bám lấy mảnh đất Tháp Mười bằng cả sự nhiệt huyết và tình yêu quê hương xứ sở nồng nhiệt.
Đồng Tháp có sen là biểu tượng, là loài hoa đồng nội, dễ trồng và có sức sống rất mãnh liệt, hương thơm thanh thoát, nhuần nhị, sen có mặt hầu khắp mọi nơi trên đất nước nhưng sen ở Đồng Tháp vẫn thể hiện rõ nhất nét văn hóa người Nam Bộ nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Sen là hình ảnh nổi tiếng bên cạnh những cánh đồng ruộng lúa vàng, những vườn trái cây trái trĩu quả.
Sen trồng thành ruộng, sen trồng trên những cánh đồng bạt ngàn, sen lên phố phường rồi vào sân nhà của người dân Đồng Tháp, sen gắn liền với nếp sinh hoạt và đời sống văn hóa truyền thống dân gian nơi đây.
Có thể nói, chính quyền địa phương rất gần gũi, cởi mở, thân thiện và luôn luôn tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ người dân lao động sản xuất, phát triển, giảm nghèo. Những con người yêu sen, quyết tâm tạo dựng sen làm nét đặc trưng riêng của người dân quê Đồng Tháp.
Đến với Đồng Tháp để cảm nhận vẻ đẹp mộc mạc, bình yên trên những cánh đồng sen bạt ngàn, khu du lịch hấp dẫn du khách bởi những món ăn đặc sản làm từ sen, hình ảnh bé sen ngộ nghĩnh dễ thương là linh vật biểu trưng cho quê hương Đồng Tháp.
Đồng Tháp vùng đất trẻ mới khai phá dưới triều Nguyễn, người Việt khai hoang mở cõi, gắn liền với lịch sử đấu tranh oai hùng của dân tộc. Cuộc sống sinh hoạt của người dân Đồng Tháp đơn giản, dễ cơ động phù hợp với miền đồng bằng sông nước.
Văn hóa nơi đây có những đặc thù riêng, môi trường tự nhiên cũng khác biệt. Có nhiều vùng người dân sống và cất nhà trệt, vùng ngập lụt thì cất nhà sàn. Ngôi nhà được cất theo kiểu truyền thống, có nhiều loại như: nọc ngựa; chữ đinh; bát dần; ở giữa gian nhà chính có bàn thờ tổ tiên, trước sân có bàn thờ ông thiêng. Đặc biệt, văn hóa ẩm thực với nhiều món ăn hấp dẫn như: canh chua cá đồng nấu với bông điên điển; cá lóc nướng trui; mắm kho; chuôt đồng khìa; cá linh nhúng dấm;… đây là những món ăn dân giã và rất ngon.
Những địa điểm hấp dẫn du khách khi đến đây như: Làng hoa Sa Đéc, Khu du lịch sinh thái Gáo Giồng, Xẻo Quýt, Tháp Mười, Vườn quốc gia Tràm Chim. Thiên nhiên như một bức tranh vô cùng hài hòa, cảm giác thoải mái khi được đắm mình vào không gian đất trời của mảnh đất sen Hồng thân thương, mến khách, hút hồn du khách với những đặc sản địa phương, trong đó có sản phẩm từ sen.
Đồng Tháp khoác lên mình chiếc áo mới, hương vị mới ngày càng phát triển vững mạnh, nơi chứa đựng nghĩa tình dào dạt của con người nơi đây, luôn mến khách, sống nghĩa tình, dung dị. Đồng Tháp mang vẻ đẹp mộc mạc của vùng sông nước Nam Bộ hào sảng, vốn dĩ đã thân thương và luôn đón chào du khách gần xa đến một cách niềm nở, chân thành khiến ai một lần đến đây đều khó quên và muốn được quay trở lại.
Gợi Ý Bài 🌵 Thuyết Minh Về Bình Dương ❤️️15 Bài Giới Thiệu Bình Dương
Bài Thuyết Minh Về Đồng Tháp Đơn Giản sẽ mang đến cho các em có thêm nhiều ý tưởng mới thú vị để hoàn thiện bài văn của mình.
Đồng Tháp nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là một trong ba tỉnh của vùng Đồng Tháp Mười, có tổng diện tích 3.374 km², dân số gần 1,7 triệu người; phía bắc giáp Cam-pu-chia, phía nam giáp Vĩnh Long và Cần Thơ, phía tây giáp An Giang, phía đông giáp Long An và Tiền Giang .
Đồng Tháp là tỉnh nằm trong vùng trọng điểm về sản xuất lương thực – thực phẩm của cả nước, đứng thứ ba cả nước về tổng sản lượng lúa với trên 3,07 triệu tấn/năm, sản lượng lúa hàng hóa trên 2 triệu tấn. Thủy sản được coi là thế mạnh thứ 2 sau cây lúa. Đồng Tháp hiện là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng cá tra xuất khẩu.
Tỉnh có hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch chằng chịt; nhiều ao, hồ lớn. Sông chính là sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) chảy qua tỉnh với chiều dài 132km. Dọc theo hai bên bờ sông Tiền là hệ thống kênh rạch dọc ngang. Đường liên tỉnh giao lưu thuận tiện với trên 300km đường bộ và một mạng lưới sông rạch thông thương.
Đồng Tháp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chia 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình 26,6ºC.
Ở Đồng Tháp có nhiều tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo và Công giáo. Tính cách người dân Đồng Tháp mang đậm nét đặc trưng chung của đồng bằng Nam Bộ: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở và giàu lòng mến khách.
Xem Thêm Bài 🌵 Thuyết Minh Về Đất Mũi Cà Mau ❤️️ 16 Bài Giới Thiệu Cà Mau
Bài Văn Thuyết Minh Về Đồng Tháp Điểm 10 để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với lối văn hấp dẫn và đặc sắc.
Là một tỉnh nông nghiệp, Đồng Tháp sản xuất nhiều lương thực và các loại nông, thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đất đai Đồng Tháp màu mỡ bởi phù sa do hai con sông Tiền và sông Hậu cung cấp hàng năm, xóm làng trù phú giữa bốn bề cây cối xanh tươi. Vì thế Đồng Tháp được biết đến như một vựa lúa của cả nước.
Ở đây có giống lúa nổi một loài lúa mọc tự nhiên từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 10 thu hoạch mà không cần chăm bón. Đồng Tháp cũng là vùng đầy triển vọng về các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, bông, thuốc lá, đậu tương và cây ăn trái như xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành, quít Lai Vung, bưởi Phong Hòa, chôm chôm, vú sữa, mãng cầu có quanh năm.
Vùng đất Đồng Tháp Mười ngày xưa nổi tiếng hoang vu với lắm bưng, trần, đìa, bàu, với bạt ngàn đưng, lác, năng, sen, súng và lau, sậy,…Đây là giang sơn của các loài động vật hoang dại như: rắn, rùa, chuột ếch, chim muông, cua, cá sấu.
Giờ đây về thăm Đồng Tháp du khách như trở về với cội nguồn thiên nhiên bởi bầu không khí trong lành, mát mẻ của những cánh đồng lúa phì nhiêu, đến viếng Khu Di tích Mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, đài liệt sĩ, Khu Di tích Gò Tháp, Chùa Kiến An Cung, Vườn Quốc Gia Tràm Chim – Tam Nông, Khu Di tích Xẻo Quít, làng hoa kiểng Tân Qui Đông, các vườn cây ăn trái Cao Lãnh, Châu Thành, Lai Vung, Thạnh Hưng…
Thành phố Cao Lãnh cách quốc lộ 1A 36km, cách Tp. Hồ Chí Minh 162km. Nằm trên bờ sông Cao Lãnh (một nhánh nhỏ của sông Tiền tách ra sau 15km lại chảy vào sông Tiền), ở ngay sát Đồng Tháp Mười mênh mông, là trung tâm kinh tế của Đồng Tháp.
Có tuyến xe khách trực tiếp từ Tp. Hồ Chí Minh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long và Long Xuyên tới Cao Lãnh. Thành phố Sa Đéc cách Tp. Hồ Chí Minh 143km, nằm ở nút giao giữa Vĩnh Long và Long Xuyên.
SCR.VN Gợi Ý Bài 🌵Thuyết Minh Về Bình Thuận ❤️️ 16 Bài Giới Thiệu Bình Thuận
Thuyết Minh Về Đồng Tháp Chi Tiết, giới thiệu đến bạn đọc một vài điểm du lịch hấp dẫn tại nơi đây.
Những ai biết về Đồng Tháp đều nghĩ rằng Đồng Tháp đẹp nhất là sen. Tuy nhiên, nếu là một khách du lịch miền Tây chính hiệu thì du khách sẽ không thể bỏ qua những địa danh du lịch nổi tiếng có cảnh đẹp lãng mạn ở Đồng Tháp như làng hoa Sa Đéc, làng sen Tháp Mười, vườn quốc gia Tràm Chim hay nhà cổ Huỳnh Thủy Lê…
Đồng Tháp từ lâu đã nổi tiếng là một tỉnh miền Tây sở hữu những cánh đồng sen rộng mênh mông, đẹp thơ mộng. Ngoài những cánh đồng sen rộng bát ngát ra thì Đồng Tháp nay còn là địa điểm du lịch miền Tây nổi tiếng với rất nhiều khu du lịch sinh thái tự nhiên hút hồn du khách tham quan.
Những địa điểm du lịch đẹp ở Đồng Tháp được nhiều du khách biết đến như làng hoa Sa Đéc, làng sen Tháp Mười, vườn quốc gia Tràm Chim hay nhà cổ Huỳnh Thủy Lê… Tất cả “hứa hẹn” sẽ mang đến cho du khách những bức ảnh đẹp tuyệt vời mà du khách sẽ khó có thể tìm được ở đâu khác ngoài Đồng Tháp. Đặc biệt, những ai đã từng đến những địa điểm du lịch kể trên đều cảm nhận được một bầu không khí thôn quê bình yên. Đây là điều mà du khách thành phố khó có thể tìm thấy được ở chốn thành thị ồn ào và náo nhiệt.
Trong hành trình khám phá những địa điểm du lịch này, du khách sẽ được ngắm cảnh đẹp, được chụp ảnh bên những khung cảnh mà mình yêu thích, được tìm hiểu nhiều hơn về du lịch miệt vườn ở Đồng Tháp… Có thể nói, Đồng Tháp quả thực là một địa điểm du lịch tuyệt vời mà du khách không nên bỏ qua nếu có dịp đi du lịch khám phá các tỉnh thành ở miền Tây sông nước.
Địa điểm du lịch Đồng Tháp đầu tiên mà du khách nào cũng ao ước muốn ghé lại tham quan một lần trong chuyến đi du lịch Đồng Tháp đó chính là làng hoa Sa Đéc. Làng hoa Sa Đéc đã có ở Đồng Tháp hơn 100 năm và nay đã trở thành làng hoa lớn nhất ở miền Tây. Du khách thích đến tham quan làng hoa Sa Đéc bởi chỉ có ở đây du khách mới có thể được chụp ảnh chung với hàng trăm loại hoa khác nhau.
Làng hoa Sa Đéc luôn mở cửa đón du khách tham quan vào các ngày trong tuần, kể cả các ngày lễ, Tết. Nhưng thời điểm đẹp nhất để đi tham quan làng hoa Sa Đéc chính là dịp cận Tết Nguyên Đán. Vào thời gian này, không gian làng hoa Sa Đéc tràn ngập màu sắc và hương thơm của các loài hoa. Nhiều du khách còn không quên chụp ảnh ghi lại khoảnh khắc bên những loài hoa mà mình yêu thích khi du lịch Sa Đéc vào dịp này.
Câu thơ “Tháp Mười đẹp nhất bông sen” quả thật đúng khi nói về làng sen Tháp Mười. Làng sen Tháp Mười nằm cách chúng tôi Lãnh khoảng 40km nhưng vẫn có rất nhiều khách du lịch yêu hoa sen tìm đến đây để tham quan và chụp ảnh. Khung cảnh làng sen Tháp Mười rất mộc mạc, đơn sơ, chỉ có cây cầu gỗ bắc ngang qua cánh đồng sen rộng lớn nhưng như vậy là đủ để du khách tìm thấy cho riêng mình những góc ảnh chụp đẹp tuyệt vời.
Chuyến đi tham quan làng sen Tháp Mười của du khách sẽ càng trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết nếu du khách dành chút thời gian thưởng thức những món ăn đặc sản Đồng Tháp làm từ sen như gỏi gà lá sen, cơm lá sen, cá lóc nướng cuốn lá sen non… cùng nhiều món ăn đặc sản miền Tây khác.
Ở Đồng Tháp có một khu vực bảo tồn sinh thái mang nét đẹp hoang sơ nhưng lại có sức hút với những du khách đam mê thiên nhiên hoang dã, đó chính là vườn quốc gia Tràm Chim. Tràm Chim hiện nay là nơi sinh sống của hơn 10.000 cá thể chim các loại. Trong đó có nhiều giống chim quý hiếm như bồ nông trắng, te vàng, ngan cánh trắng, sếu đầu đỏ…
Chia sẻ 🌼 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ngắn Gọn 🌼 15 Mẫu Hay Nhất
Dù ai chưa từng đặt chân đến vẫn biết rằng Đồng Tháp Mười nổi tiếng nhất là hoa sen, quốc hoa của Việt Nam. Đâu chỉ có thế, nơi đây còn gây thương nhớ bởi vị ngọt của quýt Lai Vung và sự rộng lớn đến kinh ngạc của khu du lịch Đồng Tháp Mười đã xuất hiện với tần suất dày đặc trong phim ảnh. Với những lý do do chẳng có lý nào bạn lại dửng dưng với Đồng Tháp, nơi được mệnh danh là một trong những điểm đến hấp dẫn đáng nhớ nhất của miền Tây.
Đồng Tháp thực ra là một tỉnh của khu vực miền Tây Nam Bộ, nằm cách Hồ Chí Minh tầm 144km về phía Tây Nam. Phía Bắc giáp với Lào, phía Nam giáp với Vĩnh Long và Cần Thơ. Phía Đông lại giáp với Long An, Tiền Giang và phía Nam giáp với An Giang. là 1 trong 13 tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long và là 1 trong 3 tỉnh thuộc Đồng Tháp Mười gồm Long A, Tiền Giang và Đồng Tháp.
Tin rằng, ai cũng đã từng biết đến câu thơ “Tháp Mười đẹp nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”. Đấy, đến với Đồng Tháp là đến với những hồ sen thơm ngát, những cánh đồng lúa rộng bát ngát, là vùng đất hội tụ nhiều sản vật sông nước. Giáp ranh với Long An, Đồng Tháp xứng đáng là điểm đến tiếp theo trong hành trình chinh phục miền Tây của bạn.
Nói về thời tiết của Đồng Tháp, là một vùng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đối nên vẫn có sự phân chia là mùa khô và mùa mưa nhưng không quá rõ rệt. Đôi khi trong mưa vẫn có nắng và mùa nắng bất chợt vẫn có những cơn mưa rào “làm phiền” nhưng không quá đáng ghét, thời tiết và nhiệt độ ở Đồng Tháp vẫn tuyệt diệu vào bất cứ mùa nào. Có 3 thời điểm mà mọi người có thể đến du lịch Đồng Tháp đó là:
Từ khoảng tháng 8-11 Âm lịch: Đơn giản là vì từ tầm đầu tháng 8 là Đồng Tháp đang vào mùa nước nổi, tha hồ mà thưởng thức đặc sản miền quê sông nước. Cũng đừng quên rằng, mọi người sẽ có dịp được nhìn ngắm những đàn cò rủ rê nhau về làm tổ bên những rừng cây vào lúc chiều tà. Và cũng thật đặc biệt, mùa nước nổi ở đây cũng là mùa hoa sen bắt đầu khoe sắc cả một vùng trời.
Từ tháng 5 cho đến tháng 7: Thời điểm này các vườn trái cây ở Đồng Tháp chín rộ với đủ loại từ xoài, bưởi, quýt, nhã với hương vị thực sự khác biệt với những nơi khác. Có lẽ nào đó, quý Lai Vung đã kịp ghi dấu ấn bởi vị ngọt thơm và mọng nước vốn có của riêng mình, là đặc sản mà nhất định phải thưởng thức.
Từ tháng 12 đến tháng 1: Là mùa ngập tràn sắc hoa xuân ở làng hoa Sa Đéc. Đây sẽ là thời điểm mà hoa ở Đồng Tháp là đẹp nhất, sôi động nhất vì đây cũng là thời điểm thu hoạch hoa cho vụ Tết của người dân.
Đọc Thêm Bài 🌵 Thuyết Minh Về Sapa ❤️️17 Bài Văn Giới Thiệu Về Sapa Hay
Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Đồng Tháp, đón đọc bài văn hay giới thiệu về làng sen Sa Đéc nổi tiếng.
Đồng Tháp là vùng đất nổi tiếng với những di tích lịch sử, văn hóa có giá trị cùng nghệ thuật ẩm thực độc đáo… và đặc biệt là làng hoa kiểng Sa Đéc – thủ phủ hoa của miền Tây. Làng hoa Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp) khởi nguyên là Làng hoa Tân Quy Đông, một làng nghề truyền thống hơn 100 năm tuổi.
Nằm bên bờ sông Tiền quanh năm lộng gió, màu mỡ phù sa, ngập tràn ánh nắng, và được mệnh danh là xứ sở của các loài hoa kiểng. Du lịch Đồng Tháp, đến với làng hoa Sa Đéc, bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh tượng ngoạn mục với muôn vàn loài hoa khoe sắc, tỏa ngát hương thơm.
Lịch sử làng hoa Sa Đéc đã hình thành từ những năm đầu thế kỷ 20, bấy giờ ở vùng Tân Quy Đông chỉ có vài hộ trồng hoa để trang trí dịp tết. Thấy hoa hợp đất nở đẹp, dần dần số hộ trồng hoa đã tăng lên và mục đích kinh doanh được xác định. Về sau lan rộng ra các vùng như rạch Sa Nhiên, phường An Hòa, xã Tân Khánh Đông, và phường 3 thuộc TP Sa Đéc.
Đến nay, tổng diện tích trồng hoa là hơn 500 ha, với trên 2.300 hộ dân, 2.000 loài hoa kiểng khác nhau, trở thành một trong những vựa hoa kiểng lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Nam.
Vườn hoa Sa Đéc trồng nhiều loài hoa đẹp như: cúc mâm xôi, cúc tiger, cúc đồng tiền, dạ yến thảo, cát tường, vạn thọ, hoa mười giờ, hoa dừa, đại phú, chiều tím, liễu hồng, xác pháo… Đặc biệt có khoảng 50 giống hoa hồng xuất khẩu .
Xứ này còn nổi tiếng bởi các loài cây kiểng, có cây quý hiếm tuổi đã ngót trăm năm, bên cạnh những loài cây rất bình dị gần gũi như: khế, cau, sung, si, mai… qua bàn tay tỉ mẫn, tài hoa của các nghệ nhân đã trở thành những cây kiểng với dáng hình đẹp, lạ.
Riêng Vạn Niên Tùng là loài cây thời thượng được giới nhà vườn dí dỏm xếp vào hàng “đại đế” của các loài cây kiểng ở đất phương Nam. Từ các loài Sơn Tùng, Ngọa Tùng, Tùng Hổ Phách, Tùng Nhật Bản… đến Kim quýt, Nguyệt quới, Mai vàng, Mai chiếu thủy… các nghệ nhân đã không ngừng sáng tạo, hình thành nên các thế phu thê, mẹ bồng con, thác đổ, nghinh phong… hàm chứa nghệ thuật và triết lý sâu xa.
Trục chính là đường hoa Sa Nhiên – Cai Dao dài hơn 2km với bạt ngàn hoa kiểng, đủ chủng loài, màu sắc, hương thơm. Khách có thể chọn đi bộ, đi xe điện hoặc thuê xe ôm, thuê xe máy để tham quan.
Điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất của làng hoa Sa Đéc so với các làng hoa khác là các luống hoa được trồng trên giàn cao, phía dưới ngập nước và người trồng hoa phải đi ủng hoặc dùng thuyền nhỏ để chăm sóc hay hái hoa. Theo những người trồng hoa nơi đây, việc làm này giúp tiết kiệm chi phí vì đa phần đất trồng hoa đều là đất ruộng trồng lúa cải tạo lại, dễ ngập nước do địa thế thấp. Mùa nước nổi, nông dân dùng xuồng, len lỏi giữa các luống hoa chăm sóc
Nơi đây còn hấp dẫn du khách với những quán cà phê làng hoa Sa Đéc có không gian rộng mở, được bài trí rất bắt mắt với những chiếc xuồng ba lá, xe lôi, cầu khỉ, lều tranh… chất đầy hoa xinh xắn. Phía đầu đường là Hội quán làng hoa, có quầy tư vấn, thuyết minh về làng hoa Sa Đéc, giới thiệu sản phẩm đặc sản, quà lưu niệm…
Hiện nay, một số hộ dân đã thiết kế vườn hoa của mình thành điểm du lịch Homestay thú vị như Ngôi nhà Hoa ếch, Rose,Phong La Vent…, nơi du khách có thể tìm hiểu làng hoa Sa Đéc sâu hơn và ở lại qua đêm trải nghiệm cuộc sống cùng gia chủ. Nghe các nghệ nhân giới thiệu các công đoạn trồng trọt cũng như chăm sóc các loài hoa khác nhau.
Nhìn cách người nông dân tự tay chăm sóc từng khóm hoa một thì bạn mới có thể hiểu được họ đã trải qua biết bao nỗi vất vả, nhọc nhằn mới cho ra đời những khóm hoa rực rỡ đến như vậy; hay cùng gia chủ đi chợ, nấu các món ngon dân dã như: bánh canh bột xắt, bánh xèo, lẩu mắm, vịt nấu chao…
Đặc biệt, khi vào xuân, khí trời mát mẻ, muôn hoa bắt đầu đua nở. Cả làng hoa như ngập tràn trong muôn sắc thắm của nghìn hoa khoe sắc. Đây là điểm du lịch bạn không thể bỏ qua ở Sa Đéc Đồng Tháp mỗi dịp Tết đến.
Theo người dân địa phương, từ rằm tháng Chạp (tháng 12 âm lịch), các vườn hoa Sa Đéc bắt đầu vào mùa thu hoạch cho dịp Tết cổ truyền. Không khí nhộn nhịp khắp vùng, từng đoàn xe tấp lập đổ về vận chuyển hoa kiểng, rồi hối hả tỏa đi khắp nơi. Dọc bờ sông, trên bến dưới thuyền cũng tất bật chợ hoa những ngày giáp Tết.
Những ngõ nhỏ quanh làng cũng được tận dụng xắp đầy hoa kiểng. Trong vườn, các chậu hoa đua nhau nở rộ, xếp thành từng hàng dài đều tắp trên giàn tre, kết thành những thảm màu rực rỡ. Những người nông dân bận rộn cắt cành, tỉa lá, chăm chút cho từng chậu hoa, chuẩn bị đưa ra chợ…
Và những ngày này, rất đông du khách từ khắp nơi đến tham quan làng hoa Sa Đéc vào xuân, khiến bức tranh du lịch Đồng Tháp thêm bừng sáng. Có thể nói rằng, làng hoa kiểng Sa Đéc đã trở thành hội hoa xuân thơ mộng của miền Tây Nam Bộ vào dịp cuối năm.
Tham Khảo Bài ❤️️ Giới Thiệu Về Đà Lạt ❤️️ 20 Bài Văn Thuyết Minh Đà Lạt Hay Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Đồng Tháp, đón đọc bài văn giới thiệu về khu di tích cụ Phó bản Nguyễn Sinh Sắc.
Đồng Tháp là nơi có nhiều khu di tích lịch sử mà khu di tích cụ phó bản Nguyễn Sinh Sắc là một trong những điểm tham quan mang lại nhiều ấn tượng , nhiều tri thức trong lòng các du khách trong và ngoài nước. Khu di tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tọa lạc ở số 123/1 Phạm Hữu Lầu, phường 4, thành phố Cao Lãnh,tỉnh Đồng Tháp .
Đây là một quần thể kiến trúc văn hoá độc đáo, được Bộ Văn hoá – Thông tin xếp hạng “Di tích cấp quốc gia” ngày 09/4/1992 nhằm ghi ơn cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước và ông cũng là thân sinh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam – Chủ tịch Hồ Chí chúng tôi di tích mộ cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc được khởi công xây dựng vào ngày 22/8/1975 và khánh thành vào ngày 13/02/1977.
Với tổng diện tích khoảng 3,6 ha, được chia thành 3 khu vực chính : Khu lăng mộ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Nhà sàn Bác Hồ và Ao sen. Nơi đây mang lại cho bạn một cảm giác thư thái nhẹ nhõm khi nổi bật trên sắc hoa, màu lá là màu trắng tinh khiết, thanh thoát của các công trình : vòm mộ, hồ sen, phòng lưu niệm, nhà trưng bày về Bác. Mọi thứ đều toát lên vẻ uy nghi mà giản dị, trang trọng mà gần gũi, khiến ta như sống trong không khí thiêng liêng, lòng không khỏi bồi hồi nhớ về công lao của Bác và các bậc sinh thành ra Người…
Tất cả các công trình ấy không những được xây dựng rất kỳ công mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Ngôi mộ Cụ Phó bảng quay về hướng đông, có mái hình cánh sen cách điệu giống hình dáng bàn tay xòe úp xuống, trên là 9 con rồng cách tân đậm nét dân gian, vươn ra trước thành 9 đầu hồi, tượng trưng cho hình ảnh nhân dân đồng bằng sông Cửu Long chở che, ôm ấp mộ người chí sĩ yêu nước.
Mộ được ốp bằng đá hoa cương, núm mộ hình chữ nhật màu xám tro, yên vị trên nền mộ bằng đámài trắng ,hình lục giác không đều, mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Trên mộ có một đỉnh trầm bằng đá Ngũ Hành Sơn,ngày đêm phản phất mùi hương khói.Khuôn viên lăng mộ có nhiều loại cây cảnh, hoa trái quý hiếm được bà con khắp cả nước mang về trồng lưu niệm, đặc biệt là cây khế gần 300 tuổi (nằm bên trái mộ) và cây sộp hơn 300 tuổi (nằm bên phải mộ).
Khoảng giữa sân cách vòm mộ 25 m về phía trước là một hồ sen được xây dựng theo hình ngôi sao 5cánh, tượng trưng cho lá cờ tổ quốc Việt Nam, ở giữa hồ sen có đài sen trắng cao gần 7m tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch giản dị và lương tâm trong sáng của cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc và cũng là biểu tượng cho quê hương Đồng Tháp yêu quý giữa lòng Tổ quốc Việt Nam…
Tại đây du khách cũng có thể cảm nhận và hình dung được cuộc đời thanh đạm của Bác, góc làm việc, nơi nghỉ ngơi của Bác sau giờ làm việc…Một góc làng Hòa An xưa – nơi lần đầu tiên cụ Nguyễn Sinh Sắc đến hoạt động cách mạng và tái hiện lại một góc hình ảnh hoạt động đặc trưng của làng quê Nam bộ,… đã được phục dựng lại sau khi mở rộng và nâng cấp toàn bộ quần thể khu di tích lên trên 10ha .
Vào những dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp… đã có hàng chục ngàn lượt khách hành hương đến viếng thăm lăng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. đặc biệt là vào ngày 27/10 âm lịch, nhân dân các vùng lâncận lại hội tụ về đây tham dự lễ giỗ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong không khí trang nghiêm, đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”.
Và được UBND tỉnh Đồng Tháp quyết định nâng ngày giỗ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hàng năm lên thành lễ hội với quy mô tổ chức thật đa dạng, phong phú, sinh động, hấp dẫn và trang trọng. Ngày nay, khu di tích Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là tựa đề nóng bỏng trong các ngành du lịch, là nơi có nhiều khách tham quan và được nhiều người biết đến với câu ca dao “Tháp mười đẹp nhất bông senViệt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Gợi Ý Bài 🌹 Thuyết Minh Về Bắc Giang ❤️️15 Bài Giới Thiệu Bắc Giang Hay
Thuyết Minh Về Bảo Tàng Đồng Tháp, cùng đón đọc bài văn sau đây để giúp bạn có cái nhìn toàn diện hơn về địa danh này.
Vị trí: Bảo tàng Đồng Tháp tọa lạc tại phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đặc điểm: Bảo tàng Đồng Tháp là nơi để du khách tìm hiểu về giá trị lịch sử, văn hóa, con người Đồng Tháp trong cuộc sống, sinh hoạt cũng như trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đến tham quan Bảo tàng Đồng Tháp du khách vẫn thấy những tòa nhà kiến trúc kiểu Pháp, đây là cơ quan đầu não của giới quan chức người Pháp trước kia như: quận đường Cao Lãnh, sau đó là trụ sở ngụy quân tỉnh Kiến Phong (dinh cò, dinh quận, trại lính, trại giam)… Trước đây, quận Cao Lãnh được người Pháp đánh giá là vùng đất có vị trí địa lý hành chính phục vụ cho chiến lược quân sự, chính trị, kinh tế quan trọng ở Nam Kỳ.
Đối với nhân dân Đồng Tháp thì quận Cao Lãnh là cửa ngõ ra, vào vùng Đồng Tháp Mười – căn cứ kháng chiến của nghĩa quân, mỗi ngôi nhà, mỗi thước đất, mỗi hàng cây nơi đây đều mang dấu tích lịch sử cách mạng trong hai thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc.
Với bề dầy lịch sử và truyền thống đấu tranh cách mạng tại nơi này, năm 1978 Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã quyết định chọn cụm di tích này là cơ quan Bảo tồn Bảo tàng tỉnh nhằm làm cho nơi đây trở thành nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Năm 1999, Bảo tàng Đồng Tháp đã được khởi công xây dựng, nằm ngay cạnh Cụm di tích Dinh Cò Tây, Nhà thầy thuốc Lư, phòng tra tấn và phòng biệt giam. Bảo tàng Đồng Tháp được khánh thành ngày 29/12/2000 và được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh vào ngày 5/9/2008.
Nằm trong khuôn viên khoảng 11.000m2, Bảo tàng được chia làm 2 khu: Nhà trưng bày và khu ngoài trời.
Nhà trưng bày gồm 2 tầng với diện tích sử dụng trưng bày hơn 1.400m2 với hàng nghìn hiện vật gốc và nhiều tài liệu khoa học thể hiện các chuyên đề chính: Thiên nhiên – Đất nước – Con người Đồng Tháp trong quá trình khai hoang mở đất; Hình ảnh anh hùng của quân và dân Đồng Tháp trong cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ; Nét sinh hoạt văn hóa của cư dân đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó đây còn là nơi lưu giữ nhiều di chỉ văn hóa Óc Eo của Vương quốc Phù Nam được khai quật tại Gò Tháp và nhiều cổ vật, hiện vật các loại, được nhân dân đóng góp, tặng Bảo tàng cất giữ, trưng bày như: cổ vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ 11-20, hòm tiền thời Gia Long thông bảo và Minh Mạng thông bảo…
Khu ngoài trời trưng bày chiến lợi phẩm trong thời kỳ chiến tranh như máya bay, các loại súng lớn…Bảo tàng Đồng Tháp với lối kiến trúc Đông – Tây kết hợp, nằm hòa quyện trong không gian cây xanh, mặt tiền hướng ra bờ sông Cao Lãnh, yên tĩnh và thơ mộng, làm tăng thêm sự thư giãn, thoải mái cho du khách khi tham quan bảo tàng.
Hãy đến với Bảo tàng Đồng Tháp để hiểu thêm về lịch sử, con người và vùng đất Đồng Tháp anh hùng.
Đọc Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở An Giang ❤️️ 15 Bài Hay
Thuyết Minh Về Đặc Sản Đồng Tháp, cùng đón đọc bài văn hay được chúng tôi giới thiệu sau đây.
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long do vậy nơi này mang đậm trong mình những đặc trưng của vùng sông nước miền Tây. Nơi đây không chỉ có nhiều điểm tham quan đẹp mà còn là nguồn cội của vô vàn các món ăn ngon.
Nai đồng quê đó chính là cái tên thân thiện gần gũi mà người dân nơi đây để gọi một đặc sản nổi tiếng Đồng Tháp làm từ thịt chuột. Nghe tới đây nhiều người hẳn lo sợ, e dè và chắc không dám thử tuy nhiên nếu bạn có đủ can đảm để vượt qua nỗi sợ của bản thân một lần nếm thử món ăn này chắc chắn sẽ không bao giờ phải hối hận.
Đồng Tháp nổi tiếng là một vựa sen lớn nhất nhì trong cả nước bởi vậy không quá ngạc nhiên nếu như chúng ta tìm được những món ăn ngon ở đây được làm từ các bộ phận của loài cây thông dụng này. Một món ăn được coi là món ăn ngon và nổi tiếng ở Đồng Tháp được du khách đánh giá cao đó chính là cá lóc nướng trui cuốn lá sen non chấm nước mắm me.
Những con cá lóc tươi ngon được bắt từ đầm, lạch lên chỉ nặng chừng nửa cân đem làm sạch, rồi nướng trên bếp than sao cho chín đều. Lưu ý là lớp da bên ngoài đảm bảo vẫn còn nguyên vẹn bao bọc lớp thịt cá bên trong Khi thưởng thức bạn xé thịt cá chấm với nước mắm me ăn kèm vài hạt đậu phộng và lá sen non thì quả thật là hết sảy.
Khi nhắc về ẩm thực miền Tây không một du khách nào không biết tới món bánh tôm Sa Giang một đặc sản có tiếng của vùng Đồng Tháp. Bánh phồng tôm được làm từ bột, thịt tôm xay nhuyễn đem trộn cùng hạt tiêu đen xay nhỏ. Với các công đoạn làm ra món ăn này vô cùng cầu kỳ bạn hoàn toàn bị thuyết phục khi thưởng thức.
Vào mùa nước nổi hằng năm khi những bông điên điển bắt đầu nở hoa vàng ươm cũng chính là lúc những sản vật đặc trưng của vùng sông nước này bắt đầu xuất hiện mà đặc trưng nhất, cũng coi là đặc sản Đồng Tháp nổi tiếng chính là dồi rắn.
Món ngon Đồng Tháp này rất đặc biệt vì không phải bạn cứ muốn là ăn được, bạn cứ có tiền là làm được nên càng trở nên đặc biệt hơn nữa. Món dồi rắn ngon nhất là được làm từ rắn bông súng và rắn nước. Ăn miếng dồi rắn, nhâm nhi li rượu bỏ qua mọi lo toan đời thường hòa mình vào thiên nhiên vùng sông nước bạn sẽ có cảm giác đã vô cùng.
Đón Đọc Bài 🍀 Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử 🍀 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Mình Về Món Ăn Đặc Sản Đồng Tháp, Chuột đồng – đặc sản quê nhà thơm ngon khó cưỡng hấp dẫn nhiều du khách đến thăm.
Chuột đồng, chuột cống nhum Cao Lãnh được chế biến thành nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng Đồng Tháp Mười. Rất nhiều du khách đi du lịch Đồng Tháp muốn thử qua món ngon lạ miệng này. Nguyên liệu để làm nên món thịt chuột nướng lu là chuột đồng hoặc chuột cống nhum Cao Lãnh. Chuột đồng Cao Lãnh không hôi như chuột cống, chuột trũi và cũng không nhỏ như chuột nhắt. Loài vật này thường sống ở những nơi thoáng mát, chủ yếu ăn lúa gạo, bắp, khoai mì và các thức ăn trong tự nhiên như cua, ốc…
Chuột đồng Cao Lãnh có bộ lông màu vàng nâu, thường sống thành từng đàn trong những hang thông nhau dưới đất, rất tinh khôn. Người ta có thể săn chuột đồng quanh năm, một số địa phương thường săn chuột từ tháng 10 đến tháng 3 âm lịch. Song ngon nhất vẫn là chuột săn được sau vụ gặt (lúa). Mỗi khi gặt lúa xong, người dân quây đuổi chuột trên gò, giăng lưới để bắt. Một số người giàu kinh nghiệm khai hoang mở đất vùng đồng bằng sông Cửu Long một thời cũng là người bắt chuột “thiện nghệ”.
Người đốt rơm, người hun khói, có khi bắt làm thịt chuột ngay giữa cánh đồng rồi nhậu lai rai ngay tại đó. Khác với chuột đồng, chuột cống nhum Cao Lãnh lớn và béo mầm hơn. Loài chuột này hung dữ, lông đen xám nhưng thịt ngon, mềm, nhiều nạc và không tanh. Chuột cống nhum có những con nặng cả cân, đem quay lu vàng ruộm trông giống như heo sữa nướng.
Từ nguyên liệu là chuột đồng, chuột cống nhum Cao Lãnh, người ta có thể chế biến thành hàng loạt món ngon như chuột giả cầy, chuột xào chua ngọt, chuột rán, chuột nhúng dấm, thịt chuột luộc ép lá chanh, chuột đồng áp chảo, chuột đồng rang muối, chuột xào xả ớt, chuột khìa nước dừa, chuột nướng chao, chuột xào lăn… Tuy nhiên, món ngon và độc đáo nhất vẫn là thịt chuột quay lu. Để cho ra món chuột quay lu ngon, chất lượng thì khi chọn chuột phải chọn con to, mập, còn sống, khoảng từ 5 – 7 con/kg.
Trước khi chế biến thì nên nhúng chuột vào nước sôi để vặt lông được dễ dàng hơn và không bị rách da. Da chuột ăn giòn và ngon nên ít ai bỏ đi khi làm chuột. Sau khi chuột được làm lông sạch sẽ, để lại da ướp ngũ vị hương, gia vị rồi gài vào móc sắt đem treo giữa lu (hay còn gọi là khạp da bò, người dân quê thường sử dụng để đựng nước sinh hoạt) đậy nắp thật kín.
Dưới đáy lu khoét một lỗ thông ra ngoài nền đất âm để bỏ than vào nướng. Chuột sẽ được quay trong lu, khoảng từ 5 – 10 phút mở nắp ra một lần để trở đều cho thịt chín. Khi chuột thật chín, người ta phết lên da những chú chuột một lớp mật ong nguyên chất cho dậy hương và đẹp màu. Món chuột quay lu đạt chất lượng khi da chúng phồng ửng đỏ, thịt chín đều, căng tròn, đẹp mắt.
Chuột đồng, chuột cống nhum ăn rất béo, thịt thơm ngon. Món này dùng kèm với muối tiêu chanh và rau răm, chuối chát, cà chua, dưa leo thì mới đúng điệu… Cắn miếng thịt chuột, tiếng da kêu giòn rụm cùng tươm mỡ trong miệng, thịt ngon ngọt, béo ngậy, mùi vị thơm nức. Nếu chưa có dịp thưởng thức món ăn này, trong chuyến du lịch Đồng Tháp sắp tới, du khách đừng quên ghé Cao Lãnh để nếm thử mùi vị chuột đồng, chuột cống nhum nơi đây.
Chuột đồng, chuột cống nhum Cao Lãnh là món ăn dân dã đầy hấp dẫn nhưng cũng được xếp vào “Top” các món đặc sản Đồng Tháp Mười không nên bỏ qua. Món ăn từ chuột vừa ngon vừa giàu dinh dưỡng không khác thịt gà, thịt lợn hay thịt bò. Và Đồng Tháp Mười là địa chỉ thích hợp để du khách tìm đến và thưởng thức đặc sản chuột đồng, chuột cống nhum Cao Lãnh.
SCR.VN tặng bạn 💧 Thuyết Minh Về Bắc Kạn 💧 14 Bài Giới Thiệu Bắc Kạn Hay
Chia sẻ đến bạn đọc bài văn hay Giới Thiệu Về Đồng Tháp Bằng Tiếng Anh để giới thiệu đến bạn bè năm châu.
Dong Thap province is in Vietnam’s southern Mekong Delta region. Its many natural scenic spots and historical and cultural sites make Dong Thap province an attractive tourist destination.
Dong Thap province has two large towns – Cao Lanh and Sa Dec. The Tien and Hau river and connecting canals enable river transport from Dong Thap to Ho Chi Minh City, adjacent provinces, and Cambodia.
Dong Thap has been called the “land of pink lotus”. There are vast lotus ponds in My Hoa commune, about 40 km from Cao Lanh, where visitors can enjoy the cool atmosphere of the lotus ponds while tasting special dishes made from lotus flowers and seeds, such as lotus sweet soup, lotus steamed sticky rice, and grilled fish wrapped in lotus leaves.
A complex in Dong Thap honoring Nguyen Sinh Sac – the father of President Ho Chi Minh – was recognized as a national relic site.
Tạm dịch
Tỉnh Đồng Tháp thuộc khu vực Nam Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Với nhiều danh lam thắng cảnh tự nhiên và các di tích lịch sử, văn hóa đã làm cho tỉnh Đồng Tháp trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.
Tỉnh Đồng Tháp có hai thị xã lớn là Cao Lãnh và Sa Đéc, sông Tiền và sông Hậu và các kênh nối liền giúp giao thông đường sông từ Đồng Tháp đến Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh lân cận và Campuchia.
Đồng Tháp được mệnh danh là “xứ sở sen hồng”. Có những đầm sen bạt ngàn ở xã Mỹ Hòa, cách Cao Lãnh khoảng 40 km, nơi du khách có thể vừa tận hưởng không khí mát mẻ của đầm sen vừa thưởng thức những món ăn đặc sản từ hạt sen như canh sen, xôi sen, và cá nướng lá sen.
Khu di tích danh thắng Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – ở Đồng Tháp đã được công nhận là khu di tích cấp quốc gia.
Tặng Bạn 🌵 Thẻ Cào Miễn Phí ❤️ Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Cập nhật thông tin chi tiết về Thuyết Minh Về Văn Miếu Trấn Biên ❤️️15 Bài Văn Hay Nhất trên website Rqif.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!